Sự vô vọng của việc xếp hạng các tạp chí khoa học
Xếp hạng tạp chí khoa học và xếp hạng trường đại học là hai xu hướng toàn cầu vừa mới nổi lên trong thời gian gần đây, và đã tạo ra nhiều tác động về chính sách đối với khoa học và giáo dục đối với nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, như bất cứ một xu hướng mới nào, tác động của việc xếp hạng tạp chí khoa học luôn có hai mặt, tích cực và tiêu cực.
Để hiểu rõ hơn về các tác động tiêu cực của việc xếp
hạng tạp chí, xin giới thiệu với bạn đọc bài viết của Ellen Hazelkorn - Phó
Giám đốc phụ trách nghiên cứu và doanh nghiệp, đồng thời là trưởng nhóm nghiên
cứu chính sách giáo dục tại Viện Công nghệ Dublin. Bà còn là tác giả của cuốn sách
“Xếp hạng và việc tái định hình giáo dục đại học: Cuộc chiến giành danh hiệu
đẳng cấp thế giới” đã được nhà xuất bản Palgrave Macmillan xuất bản vào tháng
ba vừa qua. Phương Anh dịch và giới thiệu.
Xếp hạng các tạp chí học thuật là một trong những khía
cạnh gây nhiều tranh cãi liên quan đến việc đánh giá công trình nghiên cứu của
nhà khoa học, và là một căn cứ quan trọng để xếp hạng các trường đại học; đồng
thời việc xếp hạng này có ảnh hưởng đến sự nghiệp của nhà khoa học và hoài bão
của người dân. Trong giới hàn lâm, nếu ai đó chỉ đơn thuần lâu lâu mới viết
được một vài bài trên tạp chí khoa học thì sẽ bị xem là không đủ năng lực khoa
học.
Để đáp ứng đòi hỏi về việc phải đưa ra bằng
chứng rõ ràng về thành tích nghiên cứu của các nhà khoa học, nhiều quốc gia như
Úc, Đan Mạch, Na Uy, Pháp, Tây Ban Nha, Anh, Thụy Điển, và nhiều nước khác nữa,
đã đưa ra một số tiêu chí trong việc xếp hạng các tạp chí dựa trên tác động
trích dẫn, cũng như phạm vi ảnh hưởng của bài viết trên tạp chí là ở tầm địa phương,
quốc gia hay toàn thế giới. Gần đây Quỹ khoa học châu Âu đã tiếp tục đưa ra
phiên bản kế tiếp của cái gọi là Chỉ số tham khảo châu Âu cho khối ngành nhân
văn (European Reference Index for the Humanities).
Đo lường chất lượng là một việc làm có tính chủ quan;
và việc những người thực hiện xếp hạng là các học giả có tầm cỡ, hoạt động
trong các tổ chức tư nhân độc lập, cũng chẳng làm giảm tính chủ quan của nó một
chút nào.
Cách làm này có lợi cho các trường đại học ưu tú và các
nhà nghiên cứu của họ, vốn là những người thống trị các loại ấn phẩm được có
thứ hạng cao trong các bảng xếp hạng. Một số người khác tuyên bố rằng việc xếp hạng
tạp chí có tác dụng giúp cho các ngành mới được nhiều người biết đến. Nhưng
nhìn chung, tuyệt đại đa số các nhà khoa học chỉ biết cắn răng chịu đựng trước
trào lưu xếp hạng tạp chí này mà thôi.
Hơn thế, còn có vấn đề về cơ sở dữ liệu của các tổ chức
xếp hạng, vì chúng chỉ chứa được một phần nhỏ hơn 1,3 triệu bài viết được xuất
bản hằng năm. Những ngành chiếm ưu thế trong các bảng xếp hạng là các ngành Vật
lý, Sinh học và Y học, do thói quen công bố của các ngành này. Điều này có
nghĩa là các nguồn ấn phẩm hoặc các định dạng xuất bản quan trọng khác, chẳng
hạn như sách hoặc các bản kỷ yếu hội thảo, các đóng góp vào những bộ tiêu chuẩn
quốc tế, các báo cáo chính sách, các định dạng điện tử hoặc các ấn phẩm mã
nguồn mở, vv,… tất cả đều bị bỏ qua.
Bảng xếp hạng trường đại học thế giới của Thượng Hải,
vốn đã trở thành tiêu chuẩn vàng được sử dụng bởi các chính phủ trên khắp thế
giới, tính điểm thưởng cho những bài viết đăng trên hai tạp chí Nature và
Science - nhưng họ làm như thế dựa trên cơ sở nào nhỉ? Những nghiên cứu phục vụ
cho các mục tiêu của từng quốc gia thường liên quan đến các ngành nhân văn và
khoa học xã hội cũng ít được công bố trên các tạp chí.
Có thể có rất nhiều lý do để dẫn đến một số lượng trích
dẫn cao: lĩnh vực của bài báo có thể rất phổ biến, hoặc bài báo đề cập đến một
vấn đề quan trọng, nhưng những điều này không có nghĩa là chất lượng của bài viết
cao hơn những bài khác.
Thực tế này có thể thấy khi tôi gặp một nhóm phụ nữ từ
các nước đang phát triển: Pakistan, Philippines, Nigeria... đang theo học để
lấy bằng tiến sĩ và đang theo đuổi các nghiên cứu về vấn đề chất lượng
nước, kiểm soát lũ lụt, và năng suất cây trồng– những nghiên cứu ứng dụng có liên
quan thực sự cho cộng đồng của họ; điều này có nghĩa là ngôn ngữ công bố của họ
không phải là tiếng Anh vì các công bố của họ là nhắm vào đối tượng độc giả
trong nước. Những ứng viên mà tôi phỏng vấn tại Nhật Bản vào năm 2008 cũng đã
nêu lên các quan ngại tương tự, khi các tạp chí quốc tế bằng tiếng Anh được đánh
giá cao hơn so với các tạp chí bằng tiếng Nhật.
Việc phụ thuộc quá mức vào sự đánh giá của đồng nghiệp
như là một thước đo về chất lượng công trình nghiên cứu cũng là một vấn đề cần
được nhìn nhận lại, bởi có rất nhiều lý do để dẫn đến một công trình có số
lượng trích dẫn cao: lĩnh vực của bài báo có thể rất phổ biến, hoặc bài báo đề cập
đến một vấn đề quan trọng, nhưng những điều này không có nghĩa là chất lượng
của bài viết cao hơn những bài khác.
Đây chính là nguyên do của việc trường Đại học Alexandria
của Ai Cập đã chiếm được một thứ hạng cao nhưng đầy tranh cãi trong kết quả xếp
hạng năm 2010 của THE. Trong khi giới hàn lâm đang đặt dấu hỏi về xu hướng
chuyển từ nghiên cứu do sự thôi thúc của sự tò mò đi tìm tri thức mới sang
hướng nghiên cứu với mục đích ứng dụng, thì các nhà nghiên cứu vẫn phải có
trách nhiệm đối với sự tài trợ từ nguồn ngân sách công.
Tuy nhiên, việc xếp hạng các tạp chí không hề quan tâm
gì đến trách nhiệm này. Nói cách khác, bằng cách các chính sách của riêng mình,
các bảng xếp hạng tạp chí chỉ đơn thuần đo lường những gì đã được các học giả
viết ra và được người khác đọc, hơn là đo lường những tác động và lợi ích của
nó đối với xã hội.
Đâu là bằng chứng cho thấy rằng các nghiên cứu đang góp
phần giải quyết những thách thức lớn của xã hội hoặc đem lại lợi ích cho sinh
viên? Chính phủ các nước đã áp dụng việc xếp hạng tạp chí bởi vì nó có vẻ như là
một phương pháp khoa học cho việc phân bổ nguồn lực.
Tuy nhiên, với phương pháp luận của việc xếp hạng
tạp chí hiện nay, rõ ràng là sẽ để lại những hậu quả xấu về lâu dài. Đã có bằng
chứng về những tác động tiêu cực liên quan đến việc chọn định hướng nghiên cứu
và phương pháp quản lý nghiên cứu: các học giả được khuyến khích viết các bài
để đăng trên tạp chí chứ không viết sách hoặc các báo cáo phản biện chính sách,
làm cản trở những tìm tòi trong lãnh vực mới vì không an toàn, thiên vị một số
ngành nghề trong việc phân bổ nguồn lực, và có những tác động đối với việc
tuyển dụng và sa thải trong các trường.
Thay vì sử dụng các yếu tố định lượng để đo lường chất
lượng, một Nhóm chuyên gia của EU đã đề nghị kết hợp các phương pháp tính và
định lượng. Sở dĩ cần phải làm như vậy là vì các tạp chí, các biên tập viên, và
những người phản biện của họ thường rất bảo thủ, họ luôn hành động như người
gác cổng, và điều này có thể dẫn đến nguy cơ làm mất đi những đột phá về mặt tư
tưởng vào một thời điểm mà xã hội trên toàn thế giới đang cần có ngày càng
nhiều hơn, chứ không phải là ít đi những tiếng nói phản biện của các nhà khoa
học.