Đổi mới cơ bản và toàn diện cơ chế hoạt động KH&CN- Đầu tư vào con người song song với việc thay đổi cơ chế quản lý khoa học
Quản lý khoa học chỉ phát huy tốt và hiệu quả trong một cơ chế mở với điều kiện trong đó mọi người làm việc thành thật trong tinh thần tin cậy lẫn nhau.
Trong nông nghiệp, người ứng dụng kết quả
nghiên cứu là doanh nghiệp và người sử dụng sản phẩm khoa học một cách đại trà
là nông dân. Công tác nghiên cứu ở đại học và Viện nghiên cứu quan trọng đã đành,
mà công tác giáo dục nông dân – là thành phần chủ lực trong sản xuất nông
nghiệp - để họ trở thành những người có trình độ cao, tay nghề vững để tham gia
vào chuỗi giá trị cũng quan trọng không kém.
Qua kinh nghiệm về quản lí khoa học ở Úc,
ngân sách nhà nước mỗi năm chi 5-6 tỷ đô la (chiếm 5% GDP) cho nghiên cứu khoa
học. Ngoài việc xây dựng cơ chế hoạt động chặt chẽ, minh bạch cho các cơ quan
tài trợ và quản lí dự án khoa học, để cơ chế quản lí khoa học hiệu quả, Nhà
nước phải chú trọng đào tạo con người và xây dựng xã hội với những đặc tính: 1)
Xem nghiên cứu là một trong những chỉ tiêu quan trọng hàng đầu để đánh giá giáo
viên/nghiên cứu viên và đại học/Viện nghiên cứu; 2) Phải giới hạn giờ dạy của
giáo viên đại học, và không cho phép công chức làm việc “ngoài luồng”. Muốn vậy
lương phải đủ sống; 3) Nghiên cứu phải là một hoạt động trực tiếp/gián tiếp
tăng thêm thu nhập cho giáo viên/nghiên cứu viên; 4) Xây dựng thang điểm lương
riêng cho thành phần giáo viên/nghiên cứu viên để giữ chân những nhà khoa học
tốt, dày kinh nghiệm trong nghiên cứu.
Quản lý khoa học chỉ phát huy tốt và hiệu
quả trong một cơ chế mở với điều kiện trong đó mọi người làm việc thành thật
trong tinh thần tin cậy lẫn nhau.