Công nghệ kỹ thuật số giải cứu thực phẩm thừa bỏ đi
Rác thải thực phẩm đã đạt đến tỷ lệ khổng lồ và đòi hỏi nguồn lực khổng lồ tương đương với tiềm năng cung cấp các câu trả lời bền vững. Còn gì tuyệt hơn cơ sở dữ liệu kỹ thuật số và phân tích nâng cao mà chúng ta có quyền truy cập “trong tầm tay”.
Khoảng 88 triệu tấn thực phẩm bị lãng phí ở EU mỗi năm - từ thức ăn, các sản phẩm quá hạn sử dụng và thức ăn thừa từ thực vật. Con số này tương đương với 170 kg mỗi người.
Nhu cầu giảm thiểu lãng phí thực phẩm ngày càng trở nên cấp thiết. Với nạn đói trên thế giới đang gia tăng, lãng phí thực phẩm là một vấn đề đạo đức vì nó làm trầm trọng thêm tình trạng mất an ninh lương thực. Thông qua quá trình phân hủy ở các bãi chôn lấp, thực phẩm bị loại bỏ cũng góp phần vào biến đổi khí hậu, mất đa dạng sinh học và gây ô nhiễm.
Theo Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc, chất thải thực phẩm đóng góp vào 8% tổng lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính toàn cầu.
Có một cách để giải quyết vấn đề vì một phần lớn rác thải từ thực phẩm, các nhà nghiên cứu đang sử dụng công nghệ kỹ thuật số để hạn chế thực phẩm thừa bỏ đi.
Trong khi đô thị hóa với mật độ dân số cao là nguyên nhân chính gây ra lãng phí thực phẩm, thì một hồ sơ đô thị có thể là lý tưởng cho một giải pháp - chia sẻ thực phẩm. Một hành động đầy tham vọng, do Giáo sư Anna Davies thuộc khoa Địa lý, Môi trường và Xã hội tại Đại học Trinity ở Dublin dẫn đầu, mở ra khả năng tiếp cận với các kế hoạch rác thải ở các đô thị.
Một dự án từng đoạt giải thưởng đã xem xét các sáng kiến chia sẻ thực phẩm dựa vào các thành phố. Nhiều sáng kiến trong số này đặt trọng tâm vào việc giảm thiểu lãng phí thực phẩm, cho dù đó là thông qua việc thu gom thực phẩm, vận hành các trung tâm phân phối lại thực phẩm hay điều hành bếp ăn cộng đồng. Kiểm tra việc chia sẻ thực phẩm đô thị qua trung gian CNTT-TT (ứng dụng, trang web và phương tiện truyền thông xã hội), dự án đã khám phá phản ứng công nghệ cao này có ý nghĩa như thế nào đối với quá trình chuyển đổi lương thực bền vững.
Nghiên cứu đưa ra câu trả lời cho các câu hỏi về tác động của việc chia sẻ thực phẩm ở đô thị, những rào cản và thách thức mà việc chia sẻ phải đối mặt cũng như địa điểm và cách thức thực hiện các sáng kiến này hiệu quả hơn.
Kể từ khi bắt đầu dự án vào năm 2016, nhóm nghiên cứu đã mở rộng nghiên cứu từ cơ sở tại nhà ở Dublin đến các thành phố trên khắp châu Âu, châu Á, Úc và Bắc Mỹ. Điều bắt đầu là một ý tưởng khám phá vai trò và tác động của công nghệ trong các sáng kiến chia sẻ thực phẩm tại thành phố đã phát triển thành một cơ sở dữ liệu tương tác và truy cập mở rộng, lập bản đồ chia sẻ thực phẩm đô thị trên khắp sáu lục địa.
Một bộ công cụ Đánh giá tác động trực tuyến, miễn phí sử dụng cũng được phát triển có tên là SHARE IT cho các sáng kiến chia sẻ thực phẩm nhằm đo lường và truyền đạt những đóng góp của họ cho tính bền vững. Sau đó, dự án đã tạo ra các kịch bản trong tương lai và lên đến đỉnh điểm là tuyên ngôn chia sẻ lương thực bền vững.
Các phương pháp quản lý chất thải hiện tại, bao gồm việc đưa vào bãi chôn lấp là lựa chọn tồi tệ nhất, phải được cải thiện để đáp ứng các mục tiêu của EU. Ý tưởng đằng sau MODEL2BIO là đại tu quá trình chế biến nông sản và sử dụng các chất thải thông thường, các dòng chất thải, trong một ngành công nghiệp khác.
Có những công ty nông sản thực phẩm xử lý và quản lý chất thải mà không biết rằng chúng có thể là nguyên liệu thô cho một ngành khác.
Sau một năm thu thập thông tin, năm thứ hai sẽ dành riêng cho việc thu thập thông tin từ các quốc gia khác để so sánh. Các nhà khoa học cho biết: “Tất cả là về việc lựa chọn những chất thải có tiềm năng lớn nhất,“để tạo ra nhiều lợi nhuận hơn cho các công ty nông sản thực phẩm và giảm tác động đến môi trường”.
Các dự báo về tác động của hệ thống MODEL2BIO là khả quan: dư lượng thực phẩm nông nghiệp dành cho các bãi chôn lấp giảm 10% và tổng lượng khí thải carbon giảm 20%. Thêm vào đó, một phần ba chất thải có thể trở thành tài nguyên cho các ngành công nghiệp sinh học khác.
Chất thải nông nghiệp là một chất thay thế tiềm năng cho các nguồn nguyên liệu hóa thạch như phân trộn và nó có giá trị gia tăng quan trọng nếu được sử dụng làm nguyên liệu cho các ngành công nghiệp sinh học. Tuy nhiên, sự pha trộn của các phân tử và đa dạng từ đợt này sang đợt khác gây khó khăn cho việc đánh giá và sử dụng.
ctngoc