Phát triển quy mô gắn với nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học
Có hơn 30 viện và trung tâm nghiên cứu, với nguồn nhân lực chất lượng cao khoảng 700 tiến sĩ (trong đó có hơn 220 giáo sư và phó giáo sư), hằng năm, Viện Khoa học và Công nghệ (KH và CN) Việt Nam, thực hiện hàng trăm đề tài, dự án các cấp. Song để trở thành Trung tâm KH và CN hàng đầu của cả nước, viện còn nhiều việc phải tìm cách tháo gỡ, giải quyết.
Năm 2011, Viện KH và CN Việt Nam đã triển khai thực
hiện hơn 350 nhiệm vụ, đề tài, dự án KH-CN các cấp (kể cả các đề tài, dự án
chuyển tiếp). Bên cạnh đó, viện cũng thực hiện 12 dự án NGO, sáu dự án ODA với
kinh phí 583 tỷ đồng (riêng dự án vệ tinh VNRED Sat 1 là 574 tỷ đồng)... Ðáng
chú ý, có những công trình triển khai thực hiện trong thời gian năm, bảy năm,
thậm chí hàng chục năm nay mới phát huy tác dụng trong thực tiễn đời sống. Ðó
là công trình về giải pháp hồ treo thu và giữ nước ngầm vách núi, phục vụ đồng
bào các huyện vùng cao khan hiếm nước sinh hoạt ở Hà Giang của nhóm tác giả
Viện Ðịa chất; là sản phẩm thuốc hỗ trợ cắt cơn nghiện ma túy Hentos do Giáo sư
Trần Văn Sung (Viện Hóa học) chủ trì, sau 15 năm kiểm nghiệm lâm sàng đã được
Bộ Y tế nghiệm thu, cấp giấy chứng nhận đưa vào sản xuất... Trong năm 2011,
Viện KH và CN Việt Nam công bố 1.612 công trình khoa học, trong đó 334 bài báo
khoa học được công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín, đạt tiêu chuẩn ISI;
đồng thời viện được cấp bảy bằng sáng chế và bốn giải pháp hữu ích.
Tuy nhiên, so với yêu cầu và tiềm năng thì những con số
trên còn rất khiêm tốn và hạn chế. Bởi như một số chuyên gia lâu năm ở đây đánh
giá thì số lượng công trình khoa học của viện được công bố hằng năm trên các
tạp chí quốc tế chỉ tương đương với một trường đại học ở một quốc gia trong khu
vực; chưa có những đề tài, dự án chứa đựng hàm lượng khoa học cao, có tác động
lớn đến phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Không ít đề tài thực hiện
trong thời gian qua chất lượng còn thấp.
Quy hoạch tổng thể phát triển Viện KH và CN Việt Nam
đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cuối
năm 2011. Trong đó, mục tiêu lớn được xác định là: Xây dựng Viện KH và CN Việt
Nam trở thành một Trung tâm KH và CN hàng đầu của cả nước, nghiên cứu đa ngành,
đa lĩnh vực, với đội ngũ cán bộ KH và CN có trình độ chuyên môn cao; cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại, đạt trình độ tiên tiến trên thế giới, có quan hệ hợp
tác quốc tế sâu rộng với nhiều nước có nền KH và CN phát triển; đáp ứng tốt các
yêu cầu phát triển KH và CN và sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững của đất
nước. Ðây là một nhiệm vụ hết sức nặng nề, đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu quyết
liệt của đội ngũ cán bộ Viện KH và CN Việt Nam. Vấn đề đặt ra đối với viện là
có giải pháp phát triển quy mô và nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu khoa học,
phát triển và chuyển giao công nghệ. Ðẩy mạnh các hướng nghiên cứu có tính chất
đa ngành, liên ngành, trọng điểm, tích hợp nhiều chuyên môn của các viện chuyên
ngành nhằm tận dụng và phát triển lợi thế so sánh của cơ sở khoa học - công
nghệ lớn nhất cả nước. Một mặt đầu tư thỏa đáng các nguồn lực cho lĩnh vực
nghiên cứu cơ bản, nhất là các chuyên ngành có thế mạnh như: toán học, vật lý,
công nghệ sinh học, khoa học vật liệu... Mặt khác, tập trung ưu tiên phát triển
một số hướng khoa học và công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao phục vụ thiết thực
sự nghiệp CNH, HÐH đất nước như công nghệ thông tin, tự động hóa và công nghệ
vũ trụ, khoa học và công nghệ biển, đa dạng sinh học và các chất có hoạt tính sinh
học cao, vật liệu mới, môi trường và năng lượng. Coi trọng việc xây dựng các
nhóm nghiên cứu mạnh về khoa học cơ bản đạt trình độ khu vực và thế giới. Ðồng
thời đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ nhằm khai
thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, ứng phó và giảm nhẹ
tác động của biến đổi khí hậu.
Một vấn đề không kém phần quan trọng khiến một số
chuyên gia lâu năm ở đây lo lắng là việc thu hút các cán bộ trẻ và tài năng về
viện ngày càng khó khăn (thậm chí mười năm qua viện gửi ra nước ngoài đào tạo
trình độ sau đại học hơn 100 người nhưng số quay về công tác chỉ khoảng 30%).
Nhất là trong điều kiện các chương trình trọng điểm lớn giai đoạn 2010 - 2020 đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt như Chương trình nghiên cứu và ứng dụng công
nghệ vũ trụ, Chương trình Tây Nguyên 3, Ðề án tổng thể về điều tra cơ bản và
quản lý tài nguyên môi trường biển... đang đòi hỏi một đội ngũ nhân lực có chất
lượng cao. Bởi vậy, viện cần có cơ chế, chính sách thỏa đáng thu hút người tài,
gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học. Ðồng thời, khai thác có
hiệu quả các phòng thí nghiệm trọng điểm đã được Nhà nước đầu tư, mạnh dạn hình
thành và phát triển các doanh nghiệp khoa học và công nghệ phục vụ thiết thực
đời sống, sản xuất và kinh doanh.
Từng bước khắc phục những khó khăn, vướng mắc đó, đến
năm 2020, dự kiến viện xây dựng được mười tổ chức KH và CN trọng điểm, hình
thành được khoàng 15 doanh nghiệp khoa học; số lượng công trình khoa học được
công bố quốc tế và số bằng sáng chế được đăng ký bảo hộ tăng gấp ba lần so giai
đoạn 2001 - 2010, như mục tiêu đề ra.