Nhận diện điểm hạn chế trong ứng dụng khoa học công nghệ nâng cao năng suất doanh nghiệp
Doanh nghiệp đang trong thời kỳ khôi phục sản xuất kinh doanh sau thời gian đại dịch Covid-19 tàn phá, đặc biệt là tác động mới đến từ những khó khăn chung của nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, tăng năng suất là yếu tố quan trọng hỗ trợ phát triển doanh nghiệp. Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, áp dụng hệ thống quản lý, công cụ cải tiến năng suất và nghiên cứu đổi mới sáng tạo là những yêu cầu cần thiết.
Để nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp cần chú tâm hơn vào các hoạt động KHCN và ĐMST.
Để nâng cao năng suất doanh nghiệp cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, giảm chi phí, kết hợp tăng cường hiệu quả hoạt động để phục hồi sản xuất và kinh doanh. Mặc dù vậy, trong bối cảnh hiện nay, việc ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo (KHCN&ĐMST) nâng cao năng suất vẫn còn nhiều mặt hạn chế.
Vấn đề đầu tư cho KHCN
Nhìn một cách tổng quan, hiện nay phần lớn doanh nghiệp Việt Nam vẫn là doanh nghiệp nhỏ và vừa, tiềm lực còn hạn chế nên việc đầu tư cho KHCN&ĐMST còn nhiều khó khăn. Cơ sở vật chất cho hoạt động KHCN của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế do thiếu vốn đầu tư hoặc không thuê được mặt bằng để xây dựng, mở rộng cơ sở sản xuất, kinh doanh.
Theo quy định tại Luật KH&CN 2013, doanh nghiệp được phép trích tới 10% thu nhập trước thuế để hình thành Quỹ Phát triển KH&CN, riêng đối với doanh nghiệp nhà nước thì đây là quy định bắt buộc với tỉ lệ từ 3-10%. Quy định này nếu được triển khai một cách triệt để sẽ tạo ra nguồn lực lớn từ xã hội để đầu tư, phát triển KH&CN. Doanh nghiệp sử dụng nguồn Quỹ này cho mục đích triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và hỗ trợ phát triển công nghệ.
Trên thực tế đã có nhiều doanh nghiệp thành lập Quỹ Phát triển KH&CN, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước do đây là quy định bắt buộc. Các doanh nghiệp mạnh, các tập đoàn, tổng công ty thường có quy mô quỹ rất lớn (lên tới cả ngàn tỷ đồng). Tuy nhiên, số lượng giải ngân của quỹ này rất khiêm tốn, tập trung vào một số ít hoạt động có tính chất nghiên cứu trong khi việc đầu tư đổi mới công nghệ còn hạn chế.
Vừa qua, Bộ KH&CN đã ban hành Thông tư số 05/2022/TT-BKHCN thay thế cho Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BKHCN-BTC quy định về quản lý Quỹ Phát triển KH&CN của doanh nghiệp. Trong đó, về cơ bản loại bỏ các quy định có tính cứng nhắc về mặt quy trình và thủ tục với việc triển khai các nhiệm vụ, hoạt động sử dụng Quỹ Phát triển KH&CN. Mặc dù vậy, để thực sự khơi thông nguồn tài chính này, các cơ quan xây dựng chính sách cần thấy được tính đặc thù và nhu cầu thực sự đối với hoạt động KH&CN tại doanh nghiệp để sớm có những điều chỉnh phù hợp.
Các doanh nghiệp sản xuất còn khó khăn về mặt bằng hay tại các khu công nghiệp tuy được lấp đầy nhưng nhiều nhà đầu tư chưa sản xuất, doanh nghiệp khởi nghiệp do các vướng mắc về thiếu vốn, giá nhân công ngày càng cao buộc doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ, tăng cường tự động hóa nhưng khó khăn khi tiếp cận vốn vay.
Bên cạnh đó, có một bất cập khác cũng cản trở là chính sách thuế vẫn chưa khuyến khích được các doanh nghiệp khoa học công nghệ. Do vậy, trong bối cảnh hiện nay, thúc đẩy nâng cao năng suất ngoài phụ thuộc vào nhận thức tích cực của doanh nghiệp, rất cần chính sách hỗ trợ của Nhà nước, sự quan tâm của các bộ, ngành. Trong đó, Nhà nước tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt là tháo gỡ các chính sách đất đai, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn đổi mới công nghệ, chính sách thuế khuyến khích được doanh nghiệp khoa học công nghệ.
Đại dịch Covid-19 ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất kinh doanh, vậy nên, việc đầu tư cho KHCN là cần thiết với mỗi doanh nghiệp.
Vấn đề thị trường hóa các sản phẩm khoa học công nghệ
Thực tế cho thấy, chính sách hỗ trợ của Nhà nước mới dừng lại ở giai đoạn tạo ra kết quả KHCN mà chưa tập trung hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thị trường cho sản phẩm mới; trong khi giai đoạn thương mại hóa tiềm ẩn nhiều rủi ro không kém giai đoạn nghiên cứu và phát triển, kể cả rủi ro pháp lý về việc chuyển giao tài sản KHCN do nhà nước đầu tư nghiên cứu, phát triển để các tổ chức, cá nhân khai thác thương mại hóa.
Tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ chưa có giải pháp xử lý triệt để. Các sản phẩm của nước ngoài đặc biệt là các nước tiên tiến xâm nhập mạnh mẽ vào thị trường trong nước khiến sản phẩm nội bị cạnh tranh gay gắt.
Thị trường KHCN phát triển còn chậm, còn ít tổ chức trung gian có uy tín, kinh nghiệm trong hoạt động kết nối cung cầu. Chưa khuyến khích, nuôi dưỡng và phát triển được nhiều phát minh, sáng chế trở thành sản phẩm cuối cùng và thương mại hóa. Các hoạt động nghiên cứu khoa học mới tập trung tại các trung tâm, viện nghiên cứu, tính ứng dụng chưa cao; chưa có cơ chế phát huy tính sáng tạo và khả năng nghiên cứu khoa học trong xã hội. Doanh nghiệp chưa thực sự là trung tâm, đóng vai trò quyết định cho đổi mới sáng tạo. Mối liên kết giữa nghiên cứu với đào tạo, giữa nghiên cứu thị trường và doanh nghiệp còn yếu.
Năng lực hấp thụ, ứng dụng công nghệ của doanh nghiệp trong nước
Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, doanh nghiệp KHCN cũng gặp phải rất nhiều khó khăn như thiếu nguyên liệu sản xuất, thị trường tiêu thụ bị hạn chế, thiếu hụt lao động, doanh thu sụt giảm, nguồn tiền chi trả chi phí vận hành doanh nghiệp hạn hẹp.
Ngoài ra, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế ngoài nhà nước còn hạn chế trong khi khu vực kinh tế tư nhân phần lớn là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, gặp hạn chế về tiếp cận và ứng dụng công nghệ trong sản xuất; về tiếp cận tín dụng chính thức; thiếu lao động có kỹ năng. Dù mong muốn hợp tác và học hỏi, tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp rất nhiều khó khăn để có thể tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Việc tiếp nhận và chuyển giao công nghệ từ khu vực doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp trong nước nhằm nâng cao năng suất lao động thời gian qua còn hạn chế. Doanh nghiệp trong nước chủ yếu mới tham gia ở các khâu, công đoạn tạo giá trị gia tăng thấp như gia công, lắp ráp, không chủ động được nguồn cung cho sản xuất, nhất là các sản phẩm phải nhập khẩu nguyên phụ liệu (dệt, may mặc, da giày, điện tử, hóa chất…), trong khi đây là những ngành thâm dụng lao động.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp Việt Nam chưa tạo được mối liên kết chặt chẽ để cùng tham gia chuỗi giá trị do một số nguyên nhân quan trọng như: Khi đầu tư tại Việt Nam, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hầu như đều có sẵn mạng lưới doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, đủ sức cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu; trình độ lao động tương đối thấp và chậm cải thiện đang cản trở các doanh nghiệp vừa và nhỏ liên kết và duy trì quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; các nhà cung cấp trong nước thiếu các kênh chính thức để thu thập thông tin về chiến lược mua hàng của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nên không tạo được các mối quan hệ kinh doanh; tính chất hợp đồng cung ứng với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phổ biến có tính chất ngắn hạn; và các chương trình của Chính phủ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, đổi mới của khu vực tư nhân trong nước, bao gồm từ cải tiến công nghệ, đổi mới sáng tạo đến phát triển thị trường, đào tạo kỹ năng cũng như các gói tài chính độc lập (các quỹ bảo lãnh tín dụng, quỹ hỗ trợ doanh nghiệp…) chưa phát huy hiệu quả rõ ràng.
Nền sản xuất công nghiệp dựa vào gia công và thâm dụng lao động đang chiếm phần lớn trong trong doanh nghiệp sản xuất nước ta. Nhưng có một thực tế là nhiều doanh nghiệp sản xuất vẫn sử dụng công nghệ 1.0 (sản xuất bằng tay), 2.0 (tự động chưa kết nối máy tính) và có khoảng cách rất xa ở mức 4.0. Thực tế cũng chỉ ra rằng, có nhiều thách thức trong quá trình doanh nghiệp đổi mới nâng cao năng suất chất lượng.
Đầu tiên là về máy móc, thiết bị. Dẫn chứng, đối với doanh nghiệp như Rạng Đông đã hình thành trên 60 năm, máy móc thiết bị có nguồn gốc xuất xứ từ nhiều nước, từ nhiều thời điểm khác nhau. Vì vậy, trong quá trình đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp phải tìm ra giải pháp công nghệ để tạo nên những kiến trúc hợp nhất các nền tảng công nghệ, máy móc.
Phần lớn doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn ngại chuyển đổi số, với lý do chính là vấn đề tài chính và sự am hiểu công nghệ. Trong khi đó, những nền tảng chuyển đổi số do cơ quan chức năng đang triển khai chỉ mới tập trung vào quản trị văn phòng mà chưa tính đến hoạt động sản xuất, dây chuyền công nghệ, qua đó ảnh hưởng đến lợi ích tiềm năng và cân nhắc của doanh nghiệp khi thực hiện chuyển đổi số.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng không có nhiều sự lựa chọn về tài chính. Muốn thúc đẩy nền sản xuất thông minh, nhất định phải có hệ điều hành, nhà máy thông minh để khai thác một cách có hiệu quả nguồn lực của doanh nghiệp nhưng việc đầu tư vào những giải pháp này đòi hỏi chi phí rất lớn, nhiều khi vượt quá năng lực của doanh nghiệp.
Nhiều chuyên gia nhận định, hiện nay, cuộc CMCN 4.0 đang loại bỏ dần ưu thế của kinh nghiệm, phương thức quản trị tự phát và mô hình kinh doanh cũ. Đổi mới sáng tạo giúp doanh nghiệp tăng doanh thu, lợi nhuận, giảm chi phí, tăng sự hài lòng và đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó, hoạt động này cũng giúp doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh mới, tạo ra thị trường mới, thu hút các nguồn lực tài trợ của đối tác, sử dụng hiệu quả nguồn lực, giảm lãng phí, nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Đồng thời là yếu tố không thể thiếu góp phần tạo thêm việc làm.