Bắc Ninh: Tăng cường tiềm lực KHCN, góp phần phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia
Tỉnh Bắc Ninh phấn đấu đến năm 2030, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được phát triển vững chắc, thực sự trở thành động lực tăng trưởng.
UBND tỉnh Bắc Ninh vừa ban hành Quyết định số 123/QĐ-UBND về “Chương trình phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2023 -2025, định hướng đến năm 2030”. Mục tiêu đến năm 2030, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được phát triển vững chắc, thực sự trở thành động lực tăng trưởng; góp phần phát triển toàn diện văn hóa, xã hội, con người, bảo đảm quốc phòng - an ninh, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, nâng cao vị thế và uy tín của tỉnh;
Bên cạnh đó, xây dựng nền công nghiệp vững mạnh với năng lực sản xuất mới, tự chủ và có khả năng thích ứng, chống chịu cao, từng bước làm chủ công nghệ lõi, công nghệ nền của các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn; nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững theo hướng sinh thái, ứng dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ tiên tiến; các ngành dịch vụ được cơ cấu lại đồng bộ, hiệu quả trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số với chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh được nâng cao rõ rệt, hình thành nhiều ngành dịch vụ mới, có giá trị gia tăng cao.
Cụ thể, trong giai đoạn 2023-2025: Nâng cao đóng góp của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo vào tăng trưởng kinh tế thông qua các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và phát triển công nghệ, hoạt động đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực quản trị, tổ chức trong doanh nghiệp; Phấn đấu chi thường xuyên ngân sách cấp tỉnh cho khoa học và công nghệ tại tỉnh, bằng hoặc cao hơn mức Trung ương giao hàng năm; Tỷ trọng đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GRDP của tỉnh bình quân giai đoạn 2023-2025 đạt từ 45-47%; 100% dự án đầu tư mới vào địa bàn tỉnh, thuộc danh mục thẩm định công nghệ được thẩm định theo quy định;
Đến năm 2025, nhân lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (quy đổi toàn thời gian) đạt 12 người trên một vạn dân; Hình thành Trung tâm đổi mới sáng tạo tỉnh Bắc Ninh (Khu ươm tạo, khởi nghiệp, khởi nghiệp sáng tạo, cơ sở kỹ thuật hỗ trợ công nghiệp phụ trợ và công nghệ cao, khu làm việc chung hỗ trợ doanh nghiệp). Hỗ trợ khoảng 10 dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và 12 doanh nghiệp khoa học và công nghệ theo Kế hoạch 432/KH-UBND ngày 12/9/2022 của UBND tỉnh Bắc Ninh về việc Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ đến năm 2025.
Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đóng vai trò quan trọng phát triển công nghiệp mũi nhọn, trọng tâm là các ngành công nghiệp công nghệ cao. (Ảnh minh họa)
Phấn đấu trên địa bàn tỉnh tăng thêm 6 doanh nghiệp khoa học và công nghệ, doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo so với năm 2020; Xây dựng kế hoạch thực hiện Đề án "Tăng cường, đổi mới hoạt động đo lường hỗ trợ doanh nghiệp Việt nam nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế giai đoạn đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”; Kế hoạch tổng thể nâng cao năng suất dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2030 trên địa bàn tỉnh; Kế hoạch triển khai Quyết định số 1158/QĐ-TTg ngày 13/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình phát triển thị trường khoa học và công nghệ đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh; Kế hoạch triển khai Quyết định số 118/QĐ-TTg ngày 25/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh.
Trong giai đoạn 2026 – 2030, phấn đấu bảo đảm kinh phí chi thường xuyên ngân sách cấp tỉnh cho hoạt động KH&CN hàng năm, bằng hoặc cao hơn mức Trung ương giao. Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đóng vai trò quan trọng phát triển công nghiệp mũi nhọn, trọng tâm là các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến, chế tạo, góp phần quan trọng vào cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiện đại, đưa Bắc Ninh trở thành thành phố có nền công nghiệp hiện đại, công nghệ cao vào năm 2030; tham gia tích cực, hiệu quả và tận dụng lợi thế thương mại, cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đến năm 2030, tỉ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế biến, chế tạo đạt tối thiểu 45%;
Tỷ trọng đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GRDP của tỉnh bình quân giai đoạn 2026-2030 đạt trên 50%; Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo góp phần quan trọng trong xây dựng, phát triển giá trị văn hóa, xã hội, con người Bắc Ninh; cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển của tỉnh; đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,78.
Đến năm 2030, Bắc Ninh thuộc nhóm các tỉnh dẫn đầu về trình độ sáng tạo, bảo hộ và khai thác quyền sở hữu trí tuệ. Tài sản trí tuệ mới của cá nhân, tổ chức trong tỉnh gia tăng cả về số lượng và chất lượng: Số lượng đơn đăng ký sáng chế và văn bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 25-30%/năm; số lượng đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp tăng trung bình 35-40%/năm; số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu tăng trung bình 20-25%/năm; số lượng đơn đăng ký bảo hộ giống cây trồng tăng trung bình 12-14%/năm; tỷ lệ sáng chế được khai thác thương mại đạt 90-100% số sáng chế được cấp văn bằng bảo hộ. Từ đó góp phần cải thiện vượt bậc các chỉ số về sở hữu trí tuệ của Việt Nam trong chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII).
Đến năm 2030, nhân lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (quy đổi toàn thời gian) đạt 15 người trên một vạn dân; trong đó chú trọng phát triển nhân lực trong khu vực doanh nghiệp; Hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ được cơ cấu lại gắn với định hướng ưu tiên phát triển của tỉnh và quốc gia, ngành và lĩnh vực theo hướng tự chủ, liên kết, tiếp cận chuẩn mực quốc tế.
Phấn đấu đến năm 2030 có 1-3 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng trong nước và khu vực; Phấn đấu đến năm 2030, tăng thêm 6 doanh nghiệp khoa học và công nghệ, doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo so với năm 2025. Tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt 40% trong tổng số doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
Tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ của tỉnh góp phần phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia (NQI) đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế mạnh mẽ về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng; Tỷ trọng kinh tế số đạt khoảng 30% GRDP. Hoàn thành xây dựng chính phủ số, thuộc nhóm địa phương đứng top đầu cả nước về chính phủ điện tử kinh tế số; chỉ số hiệu quả môi trường (EPI) đạt trên 55. Chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,78.