Chiến lược KH&CN: Những điểm chính
Mới đây Thủ tướng đã phê duyệt Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011-2020 với mục tiêu đến năm 2020, KH&CN Việt Nam có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến, hiện đại của khu vực ASEAN và thế giới, góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và tái cấu trúc nền kinh tế, giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% GDP…
Với quan điểm phát triển khoa học và công
nghệ để tạo được bước phát triển đột phá về lực lượng sản xuất, đổi mới mô hình
tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Chiến lược tập trung thực hiện đồng bộ
3 nhiệm vụ chủ yếu: Tiếp tục đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ
chế quản lý, cơ chế hoạt động khoa học và công nghệ; tăng cường tiềm lực khoa
học và công nghệ quốc gia; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, gắn nhiệm vụ phát
triển khoa học và công nghệ với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp,
các ngành.
Mục tiêu cụ thể Chiến lược
1. Đến năm 2020, khoa học và công nghệ góp
phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và tái cấu trúc nền kinh tế, giá trị sản
phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% GDP. Tốc
độ đổi mới công nghệ, thiết bị đạt 10 - 15%/năm giai đoạn 2011-2015 và trên
20%/năm giai đoạn 2016-2020. Giá trị giao dịch của thị trường khoa học và công nghệ
tăng trung bình 15 - 17%/năm.
2. Số lượng công bố quốc tế từ các đề tài
nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước tăng trung bình 15-20%/năm. Số lượng sáng
chế đăng ký bảo hộ giai đoạn 2011-2015 tăng gấp 1,5 lần so với giai đoạn 2006-2010,
giai đoạn 2016-2020 tăng 2 lần so với giai đoạn 2011-2015, trong đó đặc biệt
tăng nhanh số lượng sáng chế được tạo ra từ các chương trình khoa học và công
nghệ trọng điểm cấp Nhà nước.
3. Phấn đấu tăng tổng đầu tư xã hội cho
khoa học và công nghệ đạt 1,5% GDP vào năm 2015 và trên 2% GDP vào năm 2020.
Bảo đảm mức đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ không dưới
2% tổng chi ngân sách nhà nước hằng năm.
4. Đến năm 2015, số cán bộ nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ đạt 9-10 người trên một vạn dân; đào tạo và sát
hạch theo chuẩn quốc tế 5.000 kỹ sư đủ năng lực tham gia quản lý, điều hành dây
chuyền sản xuất công nghệ cao trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên phát triển của
đất nước.
Đến năm 2020, số cán bộ nghiên cứu khoa học
và phát triển công nghệ đạt 11 - 12 người trên một vạn dân; đào tạo và sát hạch
theo chuẩn quốc tế 10.000 kỹ sư đủ năng lực tham gia quản lý, điều hành dây
chuyền sản xuất công nghệ cao trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên phát triển của
đất nước.
5. Đến năm 2015, hình thành 30 tổ chức
nghiên cứu cơ bản và ứng dụng đạt trình độ khu vực và thế giới, đủ năng lực
giải quyết những vấn đề trọng yếu quốc gia đặt ra đối với khoa học và công
nghệ; 3.000 doanh nghiệp khoa học và công nghệ; 30 cơ sở ươm tạo công nghệ cao,
ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao.
Đến năm 2020, hình thành 60 tổ chức nghiên
cứu cơ bản và ứng dụng đạt trình độ khu vực và thế giới, đủ năng lực giải quyết
những vấn đề trọng yếu quốc gia đặt ra đối với khoa học và công nghệ; 5.000
doanh nghiệp khoa học và công nghệ; 60 cơ sở ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo
doanh nghiệp công nghệ cao.
Định hướng nhiệm vụ phát triển
KH&CN
Tiếp tục đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng
bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KH&CN. Về tổ chức KH&CN,
tái cấu trúc và quy hoạch lại hệ thống tổ chức KH&CN quốc gia theo hướng có
trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, trùng lặp và phù hợp với chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội của đất nước, các ngành, lĩnh vực và vùng kinh tế; Tập trung
đầu tư phát triển Viện KH&CN Việt Nam, Viện Khoa học xã hội Việt Nam trở
thành hai tổ chức KH&CN hàng đầu quốc gia và ASEAN; Nâng cao năng lực của
các trường đại học về nghiên cứu cơ bản; Xây dựng tại mỗi vùng kinh tế trọng
điểm ít nhất một tổ chức KH&CN mạnh gắn với tiềm năng, lợi thế của vùng,
liên kết chặt chẽ với các trường đại học để đào tạo nhân lực, thực hiện nhiệm
vụ KH&CN; Khuyến khích, hỗ trợ hình thành, phát triển các tổ chức nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ trong doanh nghiệp, đặc biệt là các tập
đoàn kinh tế, phát triển các cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệpKH&CN;
Phát triển mạnh doanh nghiệp KH&CN, chủ yếu từ các trường đại học, viện nghiên
cứu.
Cơ chế hoạt động KH&CN
Triển khai mô hình hợp tác công-tư trong
lĩnh vực KH&CN; phát triển các hình thức hợp tác nghiên cứu, đổi mới công
nghệ, đào tạo phát triển nguồn nhân lực giữa khu vực công và tư; chuyển cơ chế
cấp phát tài chính để thực hiện các nhiệm vụ KH&CN sang cơ chế quỹ; triển
khai nhanh chóng và đồng bộ hệ thống các quỹ KH&CN sang cơ chế quỹ; triển
khai nhanh chóng và đồng bộ hệ thống các quỹ KH&CN bao gồm các quỹ quốc gia,
bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp; chuyển các tổ chức KH&CN công lập
sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật; thực hiện
nghiên cứu ứng dụng KH&CN theo đặt hàng của Chính phủ, các bộ, chính quyền
địa phương, các doanh nghiệp và tổ chức khác.
Phát triển đồng bộ KHXH&NV
và các hướng công nghệ ưu tiên (gồm công
nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới,
công nghệ chế tạo máy-tự động hóa và công nghệ môi trường).
Giải pháp chủ yếu
Tập trung nguồn lực để thực hiện các chương
trình, đề án KH&CN quốc gia và nâng cao năng lực KH&CN quốc gia; đổi
mới cơ chế sử dụng kinh phí nhà nước cho KH&CN, huy động các nguồn lực xã
hội cho KH&CN; xây dựng đồng bộ chính sách thu hút, sử dụng cán bộ KH&CN;
phát triển thị trường KH&CN…