Đã đến lúc khoa học công nghệ cứu cánh nền kinh tế
Đó là nhận định của Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Quân tại Hội thảo “Tăng cường sự tham gia của các cơ quan thông tấn, báo chí đối với công tác truyền thông KHCN” do Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN vừa tổ chức.
Một
góc sản xuất của Cty Cp Bóng đèn Phích nước Rạng Đông
(Ảnh Ngũ Hiệp) |
Theo Bộ trưởng Nguyễn Quân, những cơ chế cũ chúng ta đã sử dụng
trong thời gian qua đến nay không còn nhiều tác dụng. Điều đó đặc biệt đúng khi
Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), hòa
nhập vào “sân chơi” toàn cầu và những đòi hỏi của phát triển đất nước. Từ thực
tiễn phát triển đất nước cũng như kinh nghiệm, bài học của các nước phát triển
cho thấy, đã đến lúc Việt Nam phải đặt KH&CN, cùng với Giáo dục và Đào tạo
là cứu cánh cho nền kinh tế.
Cần có cơ chế mới phù hợp
Trong 30 qua, Việt Nam
đã phát triển và tăng trưởng ngoạn mục với tốc độ ổn định từ 7- 8%/ năm. Tuy
nhiên, mức tăng trưởng đó lại nằm trên một mặt bằng thấp so với thế giới. Vì
vậy, dù có tốc độ tăng trưởng nhanh, nhưng giá trị của sự tăng trưởng lại chưa
lớn và chưa nhiều. Tạo đà cho việc tăng trưởng nói trên theo Bộ trưởng Nguyễn
Quân có ba nguyên nhân chính:
Thứ nhất, việc
tháo gỡ rào cản chính sách kinh tế của 30 năm trước đó đã tạo một bước tiến dài
của kinh tế thị trường. Chỉ riêng việc khoán ruộng cho nhân dân, Việt Nam từ nghèo
đói đã trở thành cường quốc về xuất khẩu gạo trên thế giới.
Thứ hai, với nguồn
nhân công dồi dào, thêm vào yếu tố giá rẻ đã đảm bảo cho sự tăng trưởng trong
suốt thời gian qua. GDP đầu người thấp tạo nên tiền lương đầu người của Việt
Nam rất thấp, như vậy các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nước ngoài có
điều kiện tiếp cận và sử dụng nguồn lực này một cách thuận lợi.
Thứ ba, chúng ta
có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng. Từ chỗ chưa phát triển công
nghiệp, đến nay yếu tố khai thác đã được triển khai qua nguồn tài nguyên quốc
gia. Tuy nhiên, trong hơn 30 năm qua, nguồn khai thác tại Việt Nam chủ yếu
dưới dạng thô, sản phẩm sơ chế dẫn đến giá trị kinh tế không cao.
Tuy nhiên, nhân công giá rẻ đã bắt đầu không còn ưu thế, bởi Việt Nam đã qua
ngưỡng của một nước có thu nhập trung bình. Nước ta cũng đang phải cạnh tranh
với một số nước trong khu vực như Mianma, Trung Quốc… về thu hút đầu tư nước
ngoài.
Tiếp đó, yếu tố về tài nguyên khoáng sản cũng không thể tiếp tục là lợi
thế như trước đây và Chính phủ đã ban hành lệnh cấm xuất khẩu nguyên liệu thô.
Than của Việt Nam đã bắt đầu phải nhập khẩu từ Indonesia, do nguồn than trong
nước không còn “dồi dào” như trước đây để có thể cung cấp đủ cho sự phát triển
lâu dài và bền vững của đất nước. Dầu mỏ cũng đã bắt đầu giảm khai thác do
nguồn cung không còn ổn định nữa.
“Cơ chế chính sách cũ" đã không còn phù hợp, cần phải điều chỉnh
lại bằng cơ chế mới, phù hợp với điều kiện hòa nhập vào “sân chơi” chung quốc
tế. Yếu tố tháo gỡ cơ chế áp dụng một thời gian dài trước đây đã đến hồi kết.
Tất cả những vấn đề trên cũng như kinh nghiệm của tất cả các quốc gia cho thấy,
đã đến lúc Việt Nam phải đặt KH&CN, cùng với Giáo dục và Đào tạo sẽ là cứu
cánh cho nền kinh tế” Bộ trưởng Nguyễn Quân nói.
Đẩy mạnh hơn nữa đầu tư từ xã hội
Về chế độ đãi ngộ cũng như tương lai nguồn nhân lực KH&CN, với 2%
tổng chi ngân sách quốc gia dành cho KH&CN là con số không hề nhỏ, điều này
tương đương từ 0,5-0,6% GDP. Đây là tỷ lệ cao so với nhiều nước trên thế giới.
Điều đó thể hiện sự quan tâm lớn của Đảng và nhà nước cho KH&CN.
Tuy nhiên, đứng từ góc độ tổng đầu tư của xã hội cho KH&CN thì mặt
bằng chung còn rất thấp. Cho đến thời điểm này, đầu tư cho KH&CN từ khối doanh
nghiệp (khoảng 300 triệu USD) chỉ bằng một nửa Ngân sách nhà nước (khoảng 700
triệu USD). Con số đó là vô cùng nhỏ so với nhu cầu xã hội đối với KH&CN,
rất thấp so với thế giới, thậm chí cả các nước trong khu vực.
Trung Quốc là một ví dụ, hiện nước này đã vượt 2,5% GDP quốc gia từ
tổng đầu tư xã hội, với 5000 tỷ USD tổng thu nhập quốc dân, như vậy khoảng 100 USD/đầu
người, so với 10 USD của Việt Nam. Hàn Quốc 5% GDP quốc gia cho KH&CN, 1
người dân Hàn Quốc có hơn 1000 USD cho KH&CN…
Cũng theo Bộ trưởng Nguyễn Quân, nếu coi KH&CN là quốc sách, cần
phải đầu tư tương xứng. Tuy nhiên, vấn đề này cho đến nay vẫn còn nhiều hạn chế
nhất định. Nguyên nhân chính vẫn là sự ỷ lại vào nhà nước, bởi từ trước tới nay
vẫn chỉ có nhà nước đầu tư cho KH&CN là chính.
Đáng chú ý là từ khi có Luật Doanh nghiệp ra đời đến nay, từ hơn 5000
doanh nghiệp thuộc cả nhà nước và tập thể (trước năm 1986), đến nay đã có hơn 600
ngàn doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó, con số doanh nghiệp
ngoài nhà nước đã nhiều hơn doanh nghiệp nhà nước rất nhiều so với trước đây.
Ngoài ra, Luật KH&CN cũng đã làm thay đổi nền KH&CN Việt Nam. Từ năm
2000 trở lại đây, Việt Nam
đã xuất hiện nhiều tổ chức KH&CN thuộc mọi thành phần kinh tế. Với nguồn
lực doanh nghiệp lớn như kể trên và khi có cơ chế hợp lý, chắc chắn nguồn đầu tư
của doanh nghiệp vào KH&CN sẽ tăng cao đáng kể, giảm sức ép cho ngân sách
từ nhà nước.
Điều đáng buồn là các doanh nghiệp nhà nước hiện nay phát triển và đầu
tư cho KH&CN chưa được chú trọng và quan tâm đúng mức. Với chủ trương trích
10% lợi nhuận trước thuế cho KH&CN, đầu tư thêm vào KH&CN sẽ tăng gấp
đôi ngân sách nhà nước. Thế nhưng, khi trình Quốc hội, điều khoản ấy đã bị thay
đổi, được sửa thành doanh nghiệp “được” trích 10%, so với “phải” trích 10%
(điều này do Bộ KH&CN đề xuất). Sự thay đổi ấy đã làm cho 4 năm qua, các
doanh nghiệp không trích một khoản nào cho KH&CN. Do vậy, một lần nữa “điều
khoản này sắp tới cần được thay đổi trong Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc
Luật KH&CN” Bộ trưởng Nguyễn Quân cho biết thêm.