KH&CN: Cơ sở xây dựng nông thôn mới
Những năm qua, khoa học và công nghệ đóng vai trò quan trọng trong phát triển sản xuất nông nghiệp, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới. Việc nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong chọn, tạo giống mới, cải tiến phương thức canh tác đã góp phần nâng hàm lượng KH-CN tăng dần trong sản xuất hàng hóa.
Những thành tựu mọi mặt
Về giống cây trồng: Nhờ áp
dụng tiến bộ khoa học trong công tác chọn giống, hiện nay cơ cấu giống cây
trồng của Việt Nam
đã được chuyển đổi theo hướng sử dụng các giống mới có năng suất cao, chất
lượng tốt. Tỷ lệ sử dụng các giống mới đạt cao nhất ở cây lúa, ngô và rau với
trên 60% diện tích gieo trồng. Các loại cây trồng khác tỷ lệ sử dụng giống mới
đều chiếm khoản 30-40% diện tích.
Về chăn nuôi: Nhờ tiến bộ
của KH&CN, nhiều giống gia súc địa phương như bò vàng, gà Mông, lợn Móng
Cái đã được phục tráng, phát triển, tạo nên những sản phẩm hàng hóa đặc sản,
giá trị cao được thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước quan tâm.
Ảnh minh họa
Về nuôi trồng thủy sản:
Nhiều giống tôm, cá mới được nghiên cứu, đưa vào nuôi trồng theo phương thức
sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Đặc biệt việc chuyển giao công nghệ về giống,
nuôi thả, thức ăn và công nghệ chế biến thủy hải sản với cá da trơn và tôm đông
lạnh đã trở thành yếu tố quyết định đảm bảo lợi thế cạnh tranh của tôm, cá xuất
khẩu ở thị trường Mỹ và EU. Gía trị sản phẩm thu được trên 1 ha đất mặt nước
nuôi trồng thủy sản tăng nhanh, từ 47,4 triệu/ha năm 1995, năm 2011 đã đạt
135,2 triệu/ha.
Nhiều giống cây lâm nghiệp
có giá trị đã được chọn tạo. Kỹ thuật nhân giống vô tính như kỹ thuật nuôi cấy
mô tế bào, kỹ thuật giâm cành đã cung cấp hàng triệu cây trồng chất lượng cao
phục vụ cho công tác phát triển rừng hàng hóa, làm phong phú thêm nguyên liệu
cho nhà máy và cho thương mại.
Cơ giới hóa sản xuất nông
nghiêp cũng được đẩy mạnh, đặc biệt là trong khâu làm đất, tưới, thu hoạch, sấy lúa, tuốt lúa, xay xát… tăng
mạnh so với trước đây, nhất là vùng ĐBSCL. Việc sử dụng cơ giới hoá trong các
khâu sản xuất không những đã giảm sức lao động, chi phí sản xuất cho bà con
nông dân mà qua đó đã nâng cao năng suất, sản lượng cây trồng.
Cần giải pháp đồng bộ
Hạn chế lớn nhất được đánh
giá trong chuỗi sản xuất nông nghiệp của Việt Nam hiện nay là chế biến sau thu
hoạch. Theo Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và PTNT, thất thoát sau thu hoạch với
lúa từ 11-13%, ngô 13-15% chưa kể sự suy giảm chất lượng sản phẩm trong quá
trình bảo quản cũng làm giảm giá thương phẩm 20-25%. Ngành thủy sản và rau quả tổn thất
20-25% về sản phẩm và chất lượng.
Bên cạnh đó, nền sản suất
nông nghiệp về cơ bản vẫn là nền sản xuất nhỏ, manh mún, chưa huy hoạch được
những vùng sản xuất tập trung để đầu tư thâm canh theo chiều sâu. Vì vậy, dù có
lợi thế của một nền nông nghiệp nhiệt đới, sản phẩm phong phú đa dạng nhưng
khối lượng của từng chủng loại còn ít, chất lượng sản phẩm chưa cao, năng lực
cạnh tranh còn hạn chế .
Chất lượng lao động ở nông
thôn Việt Nam
cũng chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất nông
nghiệp hàng hóa. Việc tiếp cận và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật của nông
dân vẫn còn hạn chế.
Đây là những hạn chế lớn
cần được khắc phục để công cuộc xây dựng nông thôn mới đạt hiệu quả hơn. Vì vậy
để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa cần có nhiều biện pháp đồng bộ,
trong đó nhấn mạnh đền khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học trong
công tác chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi mới, kể cả giống có ưu thế lai, đặt
cơ sở cho việc áp dụng các giống chuyển gene, hoàn thiện các chính sách thúc đẩy ứng dụng cơ giới hóa trong sản xuất
lúa; mở rộng cánh đồng mẫu lớn; huy động doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo đầu tư
xây dựng thêm hệ thống sấy lúa, kho chứa để thu mua, tồn trữ lúa, nhất là trong
giai đoạn thu hoạch rộ nhằm góp phần khắc phục tình trạng được mùa mất giá,
nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường.