Phục hồi và duy trì bền vững các khu bảo tồn biển
Khu bảo tồn biển là vùng biển đặc biệt được dành để bảo vệ và duy trì tính đa dạng sinh học, cũng như các nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa, được quản lí bằng pháp luật hoặc các phương thức hữu hiệu khác.
(Ảnh: TTXVN)
Khu bảo tồn biển được phân
loại thành 3 loại: Vườn quốc gia; Khu bảo tồn loài, sinh cảnh và Khu dự trữ tài
nguyên thiên nhiên thủy sinh. Theo số liệu của Liên hợp quốc, trên toàn thế
giới hiện nay đã thống kê được trên 1.306 khu bảo tồn thiên nhiên biển, phân bố
trong 18 vùng địa sinh vật biển.
Theo cách phân chia của Tổ
chức bảo tồn thiên nhiên thế giới thì Việt Nam nằm trong vùng 13 - Vùng biển
Đông Nam Á. Trong cách phân vùng này, vùng biển Việt Nam được đặt trong vùng C
(cận nhiệt đới) kéo dài từ biển Nhật Bản tới biển Tây Indonesia.
Hiện trạng công
tác bảo tồn biển Việt Nam
Theo nghiên cứu của các
nhà khoa học thì vùng biển Việt Nam
có hệ động thực vật biển phong phú. Các thảm thực vật ngập mặn phủ trên những
diện tích lớn ở ven biển, tạo thành những dải rừng lớn ở cửa sông Cửu Long và
bán đảo Cà Mau. Các rạn san hô dạng viền bờ hoặc dạng đảo vòng rất phổ biến ở
ven biển miền Trung. Những nơi như vịnh Hạ Long, phá Tam Giang, vịnh Vân Phong
có phong cảnh kỳ thú và giàu có về hải sản,... Đây thực sự là nguồn tài nguyên
thiên nhiên có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của một quốc
gia biển như Việt Nam.
Đó cũng chính là những di sản có giá trị lớn lao, không chỉ của Việt Nam mà
còn của cả thế giới, cần được hết sức bảo vệ.
Tuy vậy, trong những năm
gần đây, hệ sinh thái biển đang có dấu hiệu suy giảm nhanh chóng, đặc biệt là
đối với các khu vực biển ven bờ. Sự suy giảm hệ sinh thái biển đã có những tác
động không nhỏ đến kế hoạch phát triển kinh tế đất nước cũng như nguồn sinh kế
của cộng đồng ngư dân ven biển. Có nhiều nguyên nhân gây suy giảm hệ sinh thái
biển, song nguyên nhân chủ yếu là do khai thác quá mức, tình trạng ô nhiễm môi
trường ngày càng gia tăng và sự tàn phá các các loài thủy sản trong các khu vực
này.
Để bảo vệ đa dạng sinh học
nói chung và bảo vệ các hệ sinh thái biển nói riêng, cùng với cộng đồng quốc tế
trong chiến lược toàn cầu, ngày 26/5/2010, Chính phủ đã ban hành Quyết định số
742 phê duyệt Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển đến năm 2020, với mục tiêu cụ
thể chia làm 2 giai đoạn. Giai đoạn 2010-2015: Hoàn thiện hệ thống khu bảo tồn
biển Việt Nam
; xây dựng quy hoạch chi tiết, thành lập và đưa vào hoạt động thêm 11 khu bảo
tồn biển, đồng thời rà soát điều chỉnh quy hoạch 5 khu bảo tồn biển đã đi vào
hoạt động. Đến năm 2015, có ít nhất 0,24% diện tích vùng biển Việt Nam nằm
trong các khu bảo tồn biển và khoảng 30% diện tích của từng khu bảo tồn biển
được bảo vệ nghiêm ngặt.
Giai đoạn 2016-2020: Tiến hành nghiên cứu, đề xuất quy hoạch phát triển mở rộng
hệ thống khu bảo tồn biển; điều tra, khảo sát và thiết lập, đưa vào hoạt động một
số khu bảo tồn biển mới; tổ chức giám sát các nguồn lợi thủy sản, đa dạng sinh
học, hệ sinh thái khu bảo tồn; phát triển mô hình quản lý cộng đồng cho cộng
đồng dân cư tại địa phương và các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia
xây dựng và quản lý khu bảo tồn biển nhằm khai thác, sử dụng các khu bảo tồn biển
hiệu quả tạo đà phát triển kinh tế cho cộng đồng dân cư, góp phần bảo vệ môi
trường sinh thái biển.
San hô - nền tảng
của bảo tồn biển
Việt Nam có khoảng 1.222km2
rạn san hô, được phân bố rộng rãi từ Bắc tới Nam, với diện tích lớn nhất và
tính đa dạng sinh học cao ở miền Trung và miền Nam. Tại Việt Nam có tới 90% các
loài san hô cứng của vùng biển Ấn Độ-Thái Bình Dương và là khu vực có nhiều
loài san hô mềm thuộc giống Alcyonaria nhất trong vùng Tây Ấn Độ-Thái Bình
Dương.
Các nghiên cứu về san hô đã ghi nhận gần 400 loài san hô tạo rạn tại vùng Vịnh
Nha Trang, Ninh Thuận và Côn Đảo, mỗi nơi có hơn 300 loài. Theo các nhà hải dương
học, những rạn san hô chính là biểu hiện đầy đủ của hệ sinh thái ven biển, là
nền, lá chắn cho hệ sinh thái ngoài khơi. Đây cũng là nơi trú ngụ và sinh sản của
nhiều loài thủy sinh.
Song các nhà khoa học cũng
cảnh báo san hô Việt Nam đang đứng trước nguy cơ biến mất do các hoạt động khai
thác san hô làm đồ thủ công mỹ nghệ, nguyên liệu cho các lò nung vôi, làm đầm
nuôi tôm. Nguy hại nhất là cách khai thác san hô, đánh bắt thủy sản bằng mìn.
Các nhà hải dương học cho biết, khi đã dính mìn thì rạn san hô nào cũng tan
tành. San hô không chỉ mất đi do bị khai thác mà còn do ô nhiễm môi trường.
Thêm vào đó, ở đâu có rong phủ, ở đó san hô không còn đất sống. Trên nền đá
cứng dưới đáy biển, san hô và rong cạnh tranh quyết liệt để lấy chỗ bám sinh
sống và phát triển. San hô suy thoái và bị tiêu diệt đồng nghĩa với các nguồn
lợi thủy sinh bị suy giảm nghiêm trọng. Đó là chưa kể việc mất đi con đê chắn
sóng tự nhiên mỗi khi gió bão hay sóng thần đánh vào bờ.
So sánh với tình trạng của các rạn san hô trong khu vực, mô hình tính toán mới nhất
của các nhà khoa học cho thấy Việt Nam nằm trong nhóm các nước và vùng lãnh thổ
có tỷ lệ các rạn bị đe dọa nhiều nhất (cùng với Philippines, Trung Quốc, Đài Loan
và Indonesia). Có 200 điểm rạn san hô được khảo sát ở vùng biển ven bờ Việt Nam đã đi đến
kết luận, trong vòng 10 năm qua độ phủ của san hô bị suy giảm đáng kể. Vấn đề
này đang ngày càng trở nên nhức nhối, nếu chúng ta không có các biện pháp giải
quyết kịp thời thì nguy cơ về sự biến mất hoàn toàn của những dải san hô xinh
đẹp sẽ là điều khó tránh khỏi.
Vì vậy, để môi trường biển
được phục hồi, duy trì bền vững tại khu bảo tồn biển, Việt Nam cần tăng cường thực thi pháp
luật trong quản lý tài nguyên môi trường nói chung và tài nguyên môi trường
biển nói riêng. Nhất là tăng cường sự tham gia của người dân vào các kế hoạch
quản lý, phục hồi nguồn tài nguyên, môi trường biển. Đồng thời triển khai và
nhân rộng các mô hình chuyển đổi ngành nghề cho các nhóm đối tượng là hộ nghèo,
đang sống quá lệ thuộc vào nguồn tài nguyên môi trường biển. Mặt khác chuyển
đổi tư duy khai thác nguồn lợi thủy sản rạn san hô từ khái niệm “đánh bắt” sang
khái niệm “ngắm nhìn”, thông qua các hoạt động du lịch, giải trí từ các dự án
đầu tư du lịch, nghỉ dưỡng đang được thực hiện ngày càng nhiều trên địa bàn
những địa phương có biển hiện nay.
http://www.vietnamplus.vn (dtphong)