Một số đặc điểm sức khỏe của của sát giao thông công an thành phố Hà Nội
Đề tài do các tác giả Phan Văn Mai, Cục Y tế - Bộ Công an và Nguyễn Văn Liễu, Bệnh viện Công an thành phố Hà Nội thực hiện với mục tiêu mô tả một số đặc điểm sức khỏe, bệnh tật của Cảnh sát giao thông đường bộ Công an Thành phố Hà Nội.
Ô nhiễm môi trường
không khí do giao thông, ùn tắc xe trên phố là vấn đề nan giải thường xảy ra ở
nhiều nước trên thế giới, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Thành phố Hà Nội
có hệ thống giao thông phức tạp, hệ số đường quá thấp. Cảnh sát giao thông đường
bộ là lực lượng chịu ảnh hưởng trực tiếp tình trạng ô nhiễm môi trường. Nghiên
cứu tại địa bàn Hà Nội cho thấy, dưới tác động của môi trường, cơ cấu bệnh tật
có những điểm khác biệt, bệnh tai mũi họng chiếm tỷ lệ cao nhất (63,9%), bệnh
lý hô hấp chiếm 28,9%, các chức năng sinh lý bị biến đổi như tăng gánh nặng tuần
hoàn, nhiệt độ da trung bình tăng…
Nghiên cứu mô tả
dựa trên hồi cứu 332 hồ sơ khám sức khỏe định kỳ của Cảnh sát giao thông đường
bộ tại Bệnh viện Công an Thành phố Hà Nội từ 01/01/2008 - 31/12/2008. Số liệu
được thống kê theo biểu mẫu thiết kế sẵn. Mô tả dựa trên số liệu hồi cứu tại Bệnh
viện Công an Thành phố Hà Nội.
Kết quả nghiên cứu
cho thấy, đa số Cảnh sát Giao thông đường bộ là nam giới (96,1%), nhóm tuổi 20-30
chiếm tỉ lệ cao nhất (46,7%), chiều cao trung bình là 169,1cm; trọng lượng
trung bình là 69,5kg, đa số có chỉ số BMI ở mức bình thường (83,4%); tần số mạch
trung bình là 72,1 lần/phút, HATĐ trung bình là 118mmHg, HATT trung bình là
75,1mmHg. Nhóm bệnh mắc nhiều nhất là hô hấp - tai mũi họng (chiếm 18,7%). Ở mức
thấp hơn là các nhóm bệnh lý về tim mạch (chiếm 13,3%), bệnh lý răng hàm mặt
(chiếm 13%), bệnh lý tiêu hóa (chiếm 12,7%). Rối loạn chuyển hóa chiếm một tỉ lệ
đáng kể (5,1%). Đa số Cảnh sát giao thông đường bộ xếp loại sức khỏe tốt (rất
khỏe chiếm 22%, khỏe chiếm 51,7%).
Kết luận, cảnh
sát giao thông đường bộ có thể lực và sức khỏe tốt. Nhóm bệnh hay mắc là hô hấp
- tai mũi họng, tim mạch, răng hàm mặt và tiêu hóa.
Theo Tạp chí Y học thực hành, số 7/2013