Một mô hình hoạt động khoa học cho Việt Nam
Năm 2013 là một cái mốc tương đối quan trọng vì lần đầu tiên số bài báo khoa học của Việt Nam đã vượt qua cái ngưỡng 2.000 bài!
Nguồn:
ISI Web of Science (date of access: 30-11-2013). Đồ họa: L.T.
Tăng hoạt động
khoa học
Tính đến tháng 11-2013,
Việt Nam
đã công bố 1.776 bài báo khoa học trên các tập san ISI. Theo ước tính, con số
trọn năm 2013 có thể là ~2.100 công trình. Đây là một cái mốc đáng chú ý vì lần
đầu tiên, số ấn phẩm khoa học của Việt Nam đã vượt qua con số 2.000. Con
số này phản ánh tốc độ tăng trưởng 18% so với năm 2012, và gấp hai lần so với
năm 2009. Đó là một sự tăng trưởng rất đáng khích lệ.
Tuy nhiên, so với vài nước
trong khối ASEAN, số bài báo khoa học của Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn. Ước tính
trong năm 2013, Thái Lan công bố được 6.390 công trình, Malaysia công bố được
~8.500 công trình và Singapore là 11.400 công trình. Nói cách khác, số công bố quốc
tế của Việt Nam hiện nay
bằng 1/3 của Thái Lan, 1/4 của Malaysia
và 1/6 của Singapore.
Tuy nhiên, trong vài năm gần đây, công bố quốc tế của Việt Nam đã vượt qua Indonesia
và Philippines.
Sự tăng trưởng về hoạt
động khoa học và công bố quốc tế là một tin vui, nhưng một khía cạnh khác làm
niềm vui đó chưa trọn vẹn. Đó là tình trạng lệ thuộc của khoa học Việt Nam vào nước
ngoài. Trong 10 năm qua cho đến nay, gần 80% công trình công bố quốc tế của
Việt Nam là do hợp tác với nước ngoài, kể cả một số ít qua hình thức nghiên cứu
sinh. Ở các nước trong vùng, tỉ lệ hợp tác quốc tế là khoảng 50%.
Dĩ nhiên, hợp tác quốc tế
trong nghiên cứu khoa học là một điều cần thiết và rất đáng được khuyến khích,
nhưng nếu hợp tác mà “chủ quyền” của công trình nghiên cứu thuộc về người nước
ngoài thì đây là một chỉ số cảnh báo để đánh giá nội lực của một nền khoa học.
Theo nhiều chuyên gia về
đánh giá khoa học, một tỉ lệ 80% được xem là “lệ thuộc”, và chiếu theo quan
điểm này thì chúng ta có thể nói rằng một số ngành khoa học của Việt Nam đang
trong tình trạng lệ thuộc.
Những nhân tố
“mới nổi” và mô hình mới
Sự tăng trưởng về công bố
quốc tế của Việt Nam thời gian qua là một xu hướng chung trong vùng Đông Nam Á.
Một phần của sự tăng trưởng là do đóng góp của các công trình khoa học mà Quỹ
Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (NAFOSTED) tài trợ, nhưng một phần
lớn là do sự gia tăng hoạt động nghiên cứu khoa học ở các đại học trên khắp nước.
Khoảng 20% bài báo khoa học của VN trên các tập san quốc tế là do NAFOSTED tài
trợ, và tỉ trọng này đang tăng nhanh trong thời gian gần đây.
Nhưng đóng góp của
NAFOSTED vẫn còn khiêm tốn, vì khoảng 80% các bài báo từ VN là từ các nguồn
không do NAFOSTED hỗ trợ. Đáng chú ý là những trường đại học hàng đầu có công
bố quốc tế là Đại học Quốc gia TP.HCM, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách
khoa Hà Nội, Đại học Y Hà Nội, Đại học Khoa học tự nhiên Hà Nội và Đại học Cần
Thơ. Nhiều trường quy mô lớn ở phía Nam có ít công bố quốc tế hơn so với các trường
phía Bắc.
Hiện nay các đại học lớn
đã không còn “độc quyền” trong nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế nữa (xem
bảng). Sự đóng góp của các đại học “mới nổi” này là một trong những yếu tố quan
trọng cho sự tăng trưởng về công bố quốc tế của Việt Nam trong 5 năm qua.
Sự tham gia và đóng góp
của các trường đại học “mới” là minh chứng cho một mô hình tổ chức mới cho
nghiên cứu khoa học. Đó là “mô hình phân tán” tạo điều kiện bình đẳng cho tất
cả các trường tham gia nghiên cứu khoa học. Tiêu chí để hỗ trợ chỉ dựa vào tiêu
chuẩn khoa học mà không phân biệt cấp tỉnh hay thành phố, không phân biệt trung
ương hay địa phương.
Cũng không cần phải phân
biệt người có bằng tiến sĩ, thạc sĩ hay cử nhân; bất cứ ai có khả năng nghiên
cứu và chứng minh được tính khả thi cũng như ý tưởng tốt cần phải được tài trợ
cho nghiên cứu.
Ở cấp trường, một mô hình
mới có thể gia tăng năng suất khoa học là “nhóm tinh hoa”. Với mô hình mới này,
trường đại học lập ra những nhóm nghiên cứu chuyên ngành cỡ trung và nhỏ. Mỗi
nhóm quy tụ 3-10 nhà khoa học, có thể cả các nhà khoa học Việt kiều với nhiều
kỹ năng và kinh nghiệm hỗ tương cho nhau.
Nhà khoa học Việt kiều có thể
đóng vai trò trưởng nhóm nhưng không nhất thiết phải có mặt toàn thời gian tại
trường. Mỗi nhóm nghiên cứu tập trung vào một lĩnh vực chuyên môn, có thể nhận
tài trợ từ trường hay các nguồn địa phương và được quyền tự chủ trong việc chi tiêu.
Trường có thể hỗ trợ trong việc quản lý nhưng tạo điều kiện tinh giản các thủ
tục hành chính cho các nhóm.
“Sản phẩm” của những nhóm
nghiên cứu này dĩ nhiên phải là bài báo khoa học, chuyển giao công nghệ, và
[nếu điều kiện cho phép] bằng sáng chế đăng ký với các tổ chức khoa học quốc
tế. Mô hình này tuy mới ở Việt Nam
nhưng không mới ở nước ngoài vì đã được áp dụng rất thành công. Với mô hình
này, Đại học Tôn Đức Thắng đã nâng số công trình công bố quốc tế từ con số 0
của 5 năm trước lên >70 trong 3 năm qua.
Lượng và chất
Gần đây, có ý kiến cho
rằng chúng ta không nên chạy theo số lượng bài báo quốc tế mà nên tập trung vào
chất lượng. Quan điểm này hoàn toàn hợp lý, nhưng rất dễ bị lạm dụng bởi những
nơi không hoặc còn kém về nghiên cứu khoa học. Người ta có thể lý giải rằng
“chúng tôi chưa có công bố quốc tế vì chúng tôi đang có công trình quan trọng”.
Vấn đề của cách lý giải này là không ai biết công trình đó quan trọng như thế
nào, và ai là người đánh giá tầm quan trọng nếu tác giả chưa bao giờ hay rất ít
công bố quốc tế.
Khoa học không thể phát
triển theo xu hướng “trên trời rơi xuống” hay “đột biến”, tức không thể chỉ một
công trình mà dẫn đến giải Nobel. Trong thực tế, sự tiến bộ của khoa học theo
từng bước một. Trước khi công bố công trình lớn, nhà khoa học thường đã có
những công trình nhỏ và trung, và xây dựng uy danh của mình trên trường quốc tế
qua công bố quốc tế. Không thể trông chờ một công trình đẳng cấp Nobel khi mà
nhà khoa học vẫn chưa thực hiện được một công trình bình thường.
Một trong những trường hợp
được nêu ra để biện minh cho quan điểm không cần quan tâm đến công bố quốc tế
là trường hợp của giáo sư Peter Higgs, người mới được trao giải Nobel về vật
lý.
Giáo sư Peter Higgs cho
biết Trường đại học Edinburgh
(nơi ông làm việc) đã có ý định cho ông nghỉ việc, vì suốt 10 năm qua ông không
có một bài báo nào. Ông thuật lại rằng sự hiện diện của ông trở thành một nỗi
xấu hổ của bộ môn vật lý của Đại học Edinburgh.
Tuy nhiên, có thành viên của trường cho rằng nếu vài năm nữa ông vẫn chưa chiếm
giải Nobel thì đuổi ông vẫn chưa muộn!
Dựa vào câu chuyện của
Peter Higgs, nhiều người ở Việt Nam
cho rằng họ không cần công bố quốc tế, vì ngay cả một khôi nguyên Nobel mà còn
chậm trễ trong công bố quốc tế. Tuy nhiên, ý kiến này có phần... ngụy biện.
Trước khi được trao giải Nobel, ông Higgs từng công bố những công trình quan
trọng mang tính đột phá. Ông có ít công trình sau khi nghỉ hưu chứ không phải
trong lúc công tác. Vả lại, 99,99% các nhà khoa học là những nhà khoa học bình
thường chứ không phải ở đẳng cấp Peter Higgs.
Việt Nam cần nhiều
công bố quốc tế hơn nữa. Hiện nay Việt Nam đứng hạng 68 (trong số 236 quốc
gia) trên thế giới về công bố quốc tế. Về tần số trích dẫn (một chỉ số phản ánh
chất lượng nghiên cứu) Việt Nam
đứng hạng 65 so với Thái Lan (hạng 40), Malaysia
(47) và Singapore
(30).
Trong khi đó, theo thống
kê của Bộ Khoa học và công nghệ, Việt Nam có trên 10.000 giáo sư, 18.000 tiến
sĩ và 36.000 thạc sĩ, tức trên 64.000 người có tiềm năng nghiên cứu khoa học và
công bố quốc tế. Nếu mỗi hai tiến sĩ và giáo sư công bố một bài báo khoa học
thì Việt Nam
có tiềm năng công bố 14.000 bài báo khoa học mỗi năm. Hiện nay con số công bố
quốc tế trong thực tế chỉ bằng 14% tiềm năng!
Tóm lại, năm 2013 là một
cái mốc tương đối quan trọng vì lần đầu tiên số bài báo khoa học của Việt Nam đã vượt qua
cái ngưỡng 2.000 bài. Đó là một tín hiệu đáng khích lệ vì sẽ rút ngắn khoảng
cách giữa Việt Nam
và các nước trong vùng về công bố quốc tế. Tuy nhiên, điều đáng quan tâm là
khoa học Việt Nam
có nguy cơ lệ thuộc vào nước ngoài vì “nội lực” còn quá kém.
Để nâng cao năng suất khoa
học cấp quốc gia, cần phải mở rộng và khuyến khích tất cả các đại học tham gia
nghiên cứu và công bố quốc tế. Ngoài ra, một mô hình khả dĩ khác là lập ra và
tạo điều kiện dễ dàng cho các nhóm tinh hoa chuyên về một lĩnh vực khoa học.
Một số đại học
cấp tỉnh trong năm 2013 đã có những công trình khoa học trên các tập san quốc
tế. Đáng chú ý trong số các trường mới nổi là ĐH Vinh, ĐH Huế, ĐH Nha Trang,
ĐH Tôn Đức Thắng, ĐH Quy Nhơn, ĐH Đồng Tháp, ĐH Thái Nguyên, ĐH Đà Nẵng, ĐH
Duy Tân, ĐH Hồng Đức, ĐH Lê Quý Đôn, ĐH Quảng Bình, ĐH Tây Nguyên, ĐH Tân
Tạo...
|
Xem tin gốc tại Tuổi trẻ Online.