Bộ trưởng Nguyễn Quân: Nông dân làm khoa học Nhà nước phải hỗ trợ
Khi một người dân, một nhà khoa học thậm chí một doanh nghiệp có được kết quả nghiên cứu có thể còn sơ khai thì cơ quan quản lý cần có trách nhiệm hỗ trợ nghiên cứu đó.
Bộ trưởng Nguyễn Quân là người thúc đẩy
nhiều đổi mới trong chính sách phát triển KH&CN
Trong bối cảnh kinh tế bắt
đầu hồi phục thì việc Bộ Khoa học và Công nghệ phát động phong trào đổi mới
sáng tạo, hướng tầng lớp doanh nhân được coi là nhân tố mới, không chỉ có ý
nghĩa kích thích sự hồi phục của nền kinh tế mà còn đóng vai trò quan trọng
trong việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng bền vững. Bộ trưởng Nguyễn Quân trả
lời trong chuyên mục "Dân hỏi - Bộ trưởng".
Ở đâu có công nghệ cao thì Nhà
nước phải hỗ trợ
Một doanh nghiệp trong lĩnh vực
công nghệ đặt câu hỏi như sau: Trước nay chúng ta ưu tiên doanh nghiệp công
nghệ bằng việc miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Việc miễn thuế thu nhập
doanh nghiệp chỉ khuyến khích nhập khẩu công nghệ, chưa khuyến khích phát minh
công nghệ. Theo tôi Nhà nước cần có chương trình miễn thuế thu nhập cá nhân cho
chuyên gia, vì các doanh nghiệp khởi nghiệp liên tục lỗ nên miễn thuế thu nhập
doanh nghiệp chẳng có ý nghĩa lớn. Bộ trưởng có ý kiến gì về việc này?
- Các doanh nghiệp được ưu đãi của Nhà
nước thông qua thuế, được quy định rõ thông qua Nghị định số 80 năm 2007 của
Chính phủ về doanh nghiệp khoa học công nghệ. Và trong Thông tư hướng dẫn Nghị
định đã nói rõ là các chế độ ưu đãi về thuế chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp có
lãi. Có nghĩa là nếu doanh nghiệp thua lỗ triền miên chưa áp dụng ưu đãi thuế,
khi doanh nghiệp làm ăn có lãi thì áp dụng mức ưu đãi thuế cao nhất đối với
doanh nghiệp khoa học đó là 4 năm miễn hoàn toàn, 9 năm miễn 50%, thuế suất chỉ
10% so với thuế suất thông thường.
Tôi cũng không đồng ý quan điểm miễn thuế
thu nhập cá nhân nhất là trong bối cảnh hiện nay, rất nhiều người có thể lợi
dụng việc này. Ví dụ, doanh nghiệp thì thua lỗ, nhưng đội ngũ lãnh đạo của
doanh nghiệp thu nhập rất kinh khủng. Nếu miễn thuế thu nhập cá nhân trong khi
doanh nghiệp thua lỗ thì có xu hướng người ta sẽ lợi dụng việc đó và sẽ không
khuyến khích được doanh nghiệp sản xuất và điều tiết bằng thuế thu nhập cá nhân
cho hợp lý.
Đương nhiên, doanh nghiệp khoa học và công
nghệ sẽ ứng dụng các nghiên cứu của giới khoa học mà họ được ưu đãi không chỉ
chính sách thuế của doanh nghiệp mà còn được ưu đãi khác, ví dụ được thuê đất
với giá thấp nhất trong khung giá do Nhà nước quy định, được tiếp cận với các
nguồn vốn và các nguồn tài chính; họ được miễn thuế đối với các hoạt động
nghiên cứu, đào tạo trong doanh nghiệp, thông qua việc dành một phần lợi nhuận
của doanh nghiệp bằng việc thành lập quỹ phát triển doanh nghiệp. Và như vậy,
khi họ kinh doanh có lãi thì được áp dụng các hình thức miễn thuế theo quy định
của Nhà nước. Còn trong giai đoạn thua lỗ, chưa thuộc loại doanh nghiệp chịu
thuế thì Nhà nước cũng chưa áp dụng cế độ ưu đãi này.
Ông Lê Quốc Vinh, Chủ tịch,
Tổng Giám đốc LeeGroup hỏi: Chúng ta đầu tư khá nhiều cho việc quy hoạch, xây
dựng các khu công nghệ cao, nhưng thực tế có thu hút được các doanh nghiệp công
nghệ hay không, có hiệu quả không? Nên chăng, thay vì đầu tư các khu công nghệ
cao, chúng ta nên chọn các doanh nghiệp công nghệ tiềm năng có sản phẩm sáng tạo
thật sự và đầu tư trực tiếp cho họ. Xin Bộ trưởng cho biết ý kiến về vấn đề này?
- Tôi đồng tình với ý kiến của ông ở một
góc độ, đó là chúng ta phải làm sao thu hút được các doanh nghiệp công nghệ cao
vào các khu công nghệ cao. Hiện nay, có xu hướng không được lành mạnh lắm, đó
là nhiều địa phương đua nhau xin thành lập các khu công nghệ cao, sẽ làm phân
tán nguồn lực của ngành công nghệ cao. Nhà nước không chỉ đầu tư vào lĩnh vực
công nghệ cao mà Nhà nước có thể đầu tư vào doanh nghiệp không phải trong khu
công nghệ cao nhưng doanh nghiệp đó là doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Cho dù họ đầu tư vào các khu công nghiệp,
thậm chí là tồn tại độc lập, thì ở đâu có công nghệ cao thì Nhà nước phải hỗ
trợ. Ở đâu mà sản xuất ra sản phẩm công nghệ cao, công nghệ mới, lần đầu tiên
được áp dụng ở Việt Nam, những công nghệ có giá trị gia tăng cao thì chúng ta
đều phải hỗ trợ. Và như vậy, chúng ta không phân biệt trong khu công nghệ cao
hay ngoài.
Nhưng chúng ta vẫn phải làm khu công nghệ
cao, vì kinh nghiệm các nước phát triển, đặc biệt là các nước mới nổi, các khu
công nghệ cao đóng vai trò đầu tàu để lan tỏa những công nghệ mới, công nghệ
cao, mà ở đó là các viện nghiên cứu, trường đại học, chứ không chỉ các doanh
nghiệp.
Kinh nghiệm khu công nghệ cao Tân Trúc
(Đài Loan) là ví dụ điển hình. Chỉ 100.000 lao động, hàng năm họ đã xuất khẩu
cho Đài Loan khoảng 50 tỷ USD. Trung bình năng suất 1 người trong khu công nghệ
cao có thể đạt tới nửa triệu USD, cao gấp nhiều lần so với lao động Việt Nam.
Hiện nay nhiều quốc gia Châu Âu
hay Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan… rất quan tâm đến Công nghiệp sáng tạo
(Creative Industries). Đóng góp của ngành Công nghệ sáng tạo có thể từ
7-15% GDP. Tuy nhiên hiện lĩnh vực này ở nước ta còn rất nhiều khó khăn vì gần
như chưa được nghiên cứu và chưa có quy hoạch cụ thể. Xin Bộ trưởng cho biết
chúng ta sẽ có chính sách cụ thể như thế nào để thúc đẩy, phát triển công
nghiệp sáng tạo hay không?
- Chính phủ quan tâm đến vấn đề này từ
rất lâu rồi và Bộ Khoa học - Công nghệ cũng xây dựng đề án trình Chính phủ đề
án từ thập kỷ trước và đến 2007 Chính phủ ban hành Nghị định số 80 về khoa học
công nghệ, thực chất là hệ thống doanh nghiệp sáng tạo hay là công nghiệp sáng
tạo. Tất nhiên, đây là vấn đề vẫn còn mới mẻ đối với Việt Nam nên Nghị định 80
là viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho ngành công nghiệp sáng tạo.
Và trong gần 8 năm qua, chúng tôi đã cùng
với các bộ, ngành đã xây dựng hệ thống các doanh nghiệp khoa học công nghệ mặc
còn ít ỏi, chưa hùng mạnh nhưng là khởi đầu cho quá trình để chúng ta có hệ
thống doanh nghiệp sáng tạo, mà chúng ta vẫn gọi là đổi mới sáng tạo. Tiêu biểu
như là Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp Hải Phòng, Công ty cấp thoát nước Bà Rịa
Vũng Tàu. Họ là những doanh nghiệp có giá trị gia tăng rất lớn, tốc độ tăng
trưởng rất cao và họ tồn tại bền vững ngay cả trong cuộc khủng hoảng kinh tế
vừa rồi. Và chúng tôi quan tâm tới hệ thống doanh nghiệp này không chỉ bằng các
văn bản của Chính phủ mà hiện nay tăng cường hợp tác quốc tế.
Vừa rồi, Ngân hàng Thế giới đã tài trợ
cho một dự án để thúc đẩy phát triển công nghiệp sáng tạo với giá trị 100 triệu
USD. Chính phủ Phần Lan cũng tiếp tục tài trợ cho một dự án đổi mới sáng tạo
cho doanh nghiệp, trị giá 10 triệu euro. Và Chính phủ Việt Nam cũng dành ngân
sách đáng kể để phát triển hỗ trợ doanh nghiệp khoa học và công nghệ, vừa rồi
Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định 592 hỗ trợ các tổ chức khoa học công nghệ
của Việt Nam tạo ra các doanh nghiệp khoa học từ kết quả nghiên cứu của các tổ
chức khoa học công nghệ. Chúng tôi hy vọng đến năm 2020 sẽ có khoảng 5.000
doanh nghiệp khoa học công nghệ, như Chiến lược phát triển khoa học công nghệ mà
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt và sẽ tạo ra từ 7-15% GDP từ những doanh
nghiệp khoa học công nghệ này.
Đưa khoa học phục vụ dân sinh
Một người nội trợ gửi bộ KIT
thử nghiệm thực phẩm tới chương trình. Có nhiều dụng cụ bên trong. Người phụ nữ
viết rằng, với 10 bước hướng dẫn thì mất cả tiếng đồng hồ mới thử được rau sạch
có thuốc trừ sâu hay không, có an toàn hay không. Vì vậy, người phụ nữ đó đặt
câu hỏi, liệu các nhà khoa học Việt Nam có hướng đến các sản phẩm đơn giản hơn,
thiết thực hơn, đáp ứng nhu cầu bức thiết của người dân ?
- Tôi cho đây cũng là thành tựu của các
nhà khoa học Việt Nam
trong việc đáp ứng nhu cầu người dân trong sử dụng thực phẩm an toàn. Tuy
nhiên, không có bộ KIT nào có thể thử nghiệm được với tất cả các loại hóa chất
tồn dư trong thực phẩm. Hơn nữa, người dân không thể được tập huấn đầy đủ để có
thể có kỹ năng thành thạo trong việc sử dụng các bộ KIT này, để tự mình kiểm
tra thực phẩm. Đây là nhiệm vụ của cơ quan Nhà nước. Những người thực thi công
vụ như thế họ được đào tạo, huấn luyện, sử dụng thành thạo.
Tất nhiên các nhà khoa học phải hoàn thiện
các bộ KIT này, làm sao cho nó đơn giản nhất, cho kết quả nhanh nhất. Nhưng nếu
chúng ta mong muốn sử dụng các bộ KIT này cho đông đảo người dân thì là sai
lầm. Nói một cách hình ảnh, nếu chúng ta quản lý xã hội thật tốt, bộ máy công
an thật tốt thì chắc là không phải trang bị súng cho người dân.
Nhưng mà các nhà khoa học phải tiếp tục
nghiên cứu để công cụ này đơn giản hơn, ví dụ giống như que thử có thai của phụ
nữ. Sau này cũng có thể có que thử mà người dân sử dụng có thể biết được một
vài hóa chất độc hại. Nhưng tôi cho rằng, vai trò chính, trách nhiệm đó là của
cơ quan nhà nước chứ không phải người dân.
Báo chí những ngày gần đây
có nói về việc ông Lê Văn Đáo ở Khoái Châu, Hưng Yên chế được thuốc trừ sâu từ
dược thảo, không độc hại cho con người. Tuy nhiên, sản phẩm này lại chỉ sản
xuất được ở quy mô rất nhỏ vì không có “bà đỡ”, không có cơ quan tổ chức nào
đứng ra nghiên cứu đầu tư phát triển và nhân rộng. Rõ ràng, đây không chỉ là
lãng phí công nghệ mà còn là lãng phí tài nguyên, chất xám và tiền bạc. Bộ
trưởng thấy mình có trách nhiệm và giải pháp gì để giải quyết tình trạng như
vậy?
- Thông tin này thì tôi mới được biết,
tuy nhiên đứng về mặt quản lý khoa học công nghệ, chúng tôi thấy Bộ Khoa học -
Công nghệ hay các cơ quan liên quan cần có trách nhiệm trong việc này. Khi một
người dân, một nhà khoa học thậm chí một doanh nghiệp có được kết quả nghiên
cứu có thể còn sơ khai thì cơ quan quản lý cần có trách nhiệm hỗ trợ nghiên cứu
đó.
Ở đây là trách nhiệm của Sở Khoa học -
Công nghệ địa phương, khi phát hiện người dân có nghiên cứu có thể có ứng dụng
thì phải hỗ trợ, giới thiệu người dân đó với các cơ quan nghiên cứu Trung ương
hoặc địa phương đánh giá, hỗ trợ cho người dân nghiên cứu hoàn thiện sản phẩm,
giúp họ đăng ký tài sản trí tuệ, nếu là sáng chế thì cấp bằng sáng chế, nếu là
sáng kiến thì được bảo hộ quyền tác giả, hoặc nếu là kiểu dáng công nghiệp thì
được cấp bằng kiểu dáng công nghiệp để họ yên tâm sản phẩm của họ được bảo hộ.
Sau khi hoàn thiện thì có thể được ứng dụng trong cuộc sống.
Tuy nhiên, chúng ta đang bước vào nền kinh
tế thị trường, để những sản phẩm này vào cuộc sống thì phải tuân thủ quy luật
của nền kinh tế thị trường. Có nghĩa là nó phải có đầu ra, các doanh nghiệp
muốn đầu tư sản xuất thì phải có lãi, nếu không thì không dám đầu tư. Cơ quan
Nhà nước có thể hỗ trợ người dân nhưng để sản phẩm thành sản phẩm thương mại
hóa thì còn nhiều yếu tố khác.
Một số vùng ở thành phố và
nông thôn đang bị ô nhiễm nguồn nước, đây là một trong những nguyên nhân khiến
tỉ lệ mắc bệnh ung thư ở Việt Nam
rất cao. Xin Bộ trưởng cho biết Bộ Khoa học và Công nghệ có phối hợp với các
Bộ, ngành khác như thế nào đặc biệt là Bộ Tài nguyên và Môi trường để
khắc phục tình trạng này?
- Chúng tôi đã xây dựng chương trình về
bảo vệ môi trường. Thủ tướng giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý.
Nhưng mà khung chương trình cũng như là định hướng thì thuộc phạm vi của Bộ
Khoa học và Công nghệ. Nên mọi đề tài dự án của chương trình này phải có ý kiến
của Bộ KH&CN.
Vừa rồi khi xây dựng Luật Khoa học Công
nghệ chúng tôi cũng đưa vào quy định mà được Quốc hội chấp nhận, đó là các dự
án sản xuất đầu tư lớn, kể cả ở đầu tư nước ngoài thì đều có ý kiến thẩm định
của Bộ Khoa học - Công nghệ về trình độ công nghệ và tác động môi trường. Chúng
tôi hy vọng sắp tới việc kiểm soát ô nhiễm môi trường sẽ tốt hơn.
Ngoài ra, chúng tôi hỗ trợ các bộ ngành
khi nghiên cứu về môi trường. Điển hình, vừa rồi Đại học Quốc gia Hà Nội đã có
công trình nghiên cứu về Asen trong nước ngầm tại Hà Nội và đã được đăng tải
trên tạp chí khoa học hàng đầu thế giới và là đóng góp lớn của Đại học Quốc gia
Hà Nội trong việc kiểm soát ô nhiễm.
Hoặc là với Viện Hàn lâm Khoa học công
nghệ Việt Nam, chúng tôi đã hỗ trợ một dự án rất lớn nghiên cứu chế phẩm sinh
học để xử lý dioxin bị ô nhiễm trong đất ở các vùng bị ảnh hưởng bởi chất độc
da cam mà trước đây trong chiến tranh Hoa Kỳ đã rải xuống. Chế phẩm của Viện
Hàn lâm KH&CN Việt Nam
có ưu thế nổi trội so với tất cả các chế phẩm khác. Chúng tôi đang cho thử
nghiệm trên quy mô lớn, hy vọng sẽ xử lý triệt để ô nhiễm dioxin ở Việt Nam.
Xin cảm ơn Bộ trưởng !