Đánh giá các tổ chức KH&CN: Chuyển từ quản lý đầu vào sang quản lý đầu ra
Đánh giá các tổ chức KH&CN là một nội dung cải cách quan trọng, giúp Nhà nước tăng cường giám sát hiệu quả các hoạt động và nguồn ngân sách cấp cho các đơn vị, đồng thời giúp các đơn vị tự nhìn ra các điểm mạnh/điểm yếu để tự cải thiện mình. Để tìm hiểu về thực trạng và triển vọng đánh giá các tổ chức KH&CN Việt Nam, tạp chí Tia Sáng đã có cuộc phỏng vấn Viện Đánh giá khoa học và Định giá công nghệ. Sau đây là nội dung trao đổi giữa phóng viên cùng TS. Trần Hậu Ngọc, Viện trưởng, và bà Nguyễn Thị Thu Oanh, Phó Viện trưởng.
Xin ông/bà cho biết về
thực trạng công tác đánh giá các tổ chức KH&CN ở Việt Nam?
Bà Nguyễn Thị Thu Oanh: Việc đánh giá các tổ chức KH&CN
là vô cùng cần thiết vì kết quả hoạt động của họ quyết định sự thành bại
trong việc thực hiện chiến lược KH&CN của quốc gia. Tuy nhiên, lâu nay
chúng ta chưa thực sự tiến hành đánh giá các tổ chức KH&CN một cách độc
lập, khách quan. Hằng năm, các tổ chức chỉ xây dựng báo cáo tổng kết để đánh
giá kết quả hoạt động của mình. Báo cáo chủ yếu tập trung vào những thành tích
và các mặt tích cực, với những đánh giá không dựa trên một bộ tiêu chí
nhất quán, toàn diện. Các cơ quan quản lý chỉ mới tập trung quản lý chặt ở
khâu đầu vào là con người và tài chính, nhưng khâu đầu ra là kết quả nghiên cứu
thì công tác quản lý còn rất lỏng lẻo.
Sau khi Thông tư về
đánh giá tổ chức KH&CN (hiện đang trong quá trình dự thảo) được ra đời và
triển khai, các tổ chức KH&CN của chúng ta sẽ được chú trọng đánh giá theo
những mục tiêu nào?
TS. Trần Hậu Ngọc:
Căn cứ theo Luật KH&CN hiện hành, việc đánh giá tổ chức KH&CN nhằm vào
3 mục đích cơ bản, đó là tạo cơ sở xếp hạng tổ chức KH&CN, phục vụ hoạt
động hoạch định chính sách phát triển KH&CN và quy hoạch mạng lưới các tổ
chức KH&CN, tạo cơ sở cho việc xét duyệt các đề tài, nhiệm vụ và kinh phí
cho các tổ chức KH&CN.
Vì sao việc xếp hạng
các tổ chức KH&CN được Luật KH&CN hiện hành xếp vào mục tiêu đầu tiên
của công tác đánh giá tổ chức KH&CN, và liệu việc xếp hạng này có khả thi
hay không?
Bà Nguyễn Thị Thu
Oanh: Theo quan điểm của chúng tôi, nhu cầu xếp hạng kể trên xuất phát
từ thực tế là ở Việt Nam có quá nhiều các tổ chức KH&CN, Bộ, ngành nào
cũng có nhu cầu quản lý một số viện nghiên cứu, dẫn tới không tránh khỏi sự
trùng lặp– cùng lĩnh vực chuyên môn nhưng tồn tại các viện thuộc các Bộ, ngành
khác nhau. Ở các nước có nền KH&CN phát triển, các viện nghiên cứu không
phân theo phạm vi quản lý của các Bộ, ngành, mà phân theo loại hình hoặc lĩnh
vực nghiên cứu, ví dụ ở CHLB Đức, các viện được phân thành 3 nhóm chính: nghiên
cứu cơ bản (Hiệp hội Max-Planck), nghiên cứu ứng dụng (Hiệp hội Leibnitz và
Helmholtz) và nghiên cứu ứng dụng và triển khai công nghệ (Hiệp hội
Fraunhofer). Ở Hàn Quốc, các viện được phân thành 5 nhóm theo lĩnh vực nghiên
cứu: nghiên cứu KH&CN cơ bản, nghiên cứu KH&CN công nghiệp, nghiên cứu
công nghệ công, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, nghiên cứu kinh tế và
xã hội.
Theo kinh nghiệm ở các
nước có nền quản lý KH&CN phát triển, các tổ chức KH&CN được đánh giá
theo tiêu chí nào?
Bà Nguyễn Thị Thu
Oanh: Kinh nghiệm từ CHLB Đức cho thấy họ chú trọng vào ba nhóm tiêu
chính, đó là kết quả KH&CN (công bố khoa học, sáng chế và chuyển giao
công nghệ), năng lực nghiên cứu (năng lực của đội ngũ cán bộ nghiên cứu so với
trong nước và quốc tế), tổ chức và quản lý (cách thức tổ chức và sử dụng các
nguồn lực). Tuy nhiên, khi đánh giá các tổ chức KH&CN của Việt Nam, chúng
ta không thể chỉ dùng những tiêu chí này – các chuyên gia đã áp dụng các tiêu
chí của Đức để đánh giá thử một số tổ chức KH&CN của Việt Nam nhưng
không phù hợp – bởi năng lực nghiên cứu của các viện nghiên cứu ở nước ta
nhìn chung còn rất hạn chế, nhiều viện có số lượng công bố quốc tế và bằng sáng
chế quá ít. Vì vậy, chúng tôi phải bổ sung thêm một số tiêu chí khác, ví dụ như
tiêu chí về dịch vụ KH&CN.
Lâu nay việc triển
khai thực hiện Nghị định 115 về tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các viện nghiên
cứu gặp nhiều khó khăn vì không ít viện tự coi mình thuộc lĩnh vực nghiên cứu
cơ bản nên không thể sống thiếu nguồn kinh phí tài trợ của Nhà nước. Liệu khi
triển khai công tác đánh giá các tổ chức KH&CN chúng ta có thể làm rõ về
bản chất thực sự của các viện này?
TS. Trần Hậu Ngọc:
Việc đánh giá các tổ chức KH&CN có thể giúp xác định được tính chất của
từng viện nghiên cứu, làm cơ sở để các cơ quan quản lý tham khảo và đưa ra
những giải pháp quản lý phù hợp. Đây là vấn đề ảnh hưởng tới quyền lợi
của nhiều viện nghiên cứu, nhưng là điều cần thiết để cải thiện tính hiệu quả
trong công tác quản lý của Nhà nước.
Việc đánh giá các tổ chức
KH&CN khi triển khai sẽ gặp những khó khăn, thách thức gì?
Bà Nguyễn Thị Thu Oanh: Khó khăn rõ ràng nhất là chúng ta có quá nhiều tổ chức
KH&CN, không thể ngay lập tức triển khai đồng loạt mà bước đầu chỉ có thể
làm thí điểm ở một số ngành. Khó khăn thứ hai là hiện nay đa số các tổ chức
nghiên cứu không có trong tay dữ liệu để cung cấp phục vụ công tác đánh giá, -
nếu không có dữ liệu thì việc đánh giá hoàn toàn không có ý nghĩa. Như đã đề
cập, các nhà quản lý và các viện nghiên cứu của chúng ta chỉ chú trọng vào quản
lý đầu vào là con người và tài chính, còn khâu đầu ra là các kết quả nghiên cứu
thì chưa được quan tâm, do đó dữ liệu về kết quả nghiên cứu không được
thu thập và khai thác một cách hệ thống. Khó khăn cơ bản nữa là làm
sao tạo động lực để các tổ chức KH&CN tự giác phối hợp trong công tác đánh
giá.
Vậy chúng ta tạo động
lực để các tổ chức KH&CN hợp tác trong công tác đánh giá bằng cách nào?
Bà Nguyễn Thị Thu
Oanh: Trước hết việc đánh giá phải được thực hiện công bằng,
khách quan và kết quả đánh giá có giá trị hữu ích để giúp các tổ chức KH&CN
tự nhìn thấy điểm mạnh, điểm yếu của mình, làm cơ sở cho việc tự cải thiện hoạt
động, tổ chức của họ. Bên cạnh đó, công tác đánh giá phải mang tính ràng buộc,
gắn với chế tài thưởng phạt minh bạch, rõ ràng.
Theo tinh thần Luật KH&CN
hiện hành, kết quả đánh giá các tổ chức KH&CN là cơ sở cho việc xét duyệt
các nhiệm vụ KH&CN. Nhưng không ít các tổ chức KH&CN của chúng ta đang
sống dựa trên nguồn kinh phí hoạt động thường xuyên do Nhà nước tài trợ thay vì
các nhiệm vụ KH&CN, như vậy kết quả đánh giá có thể dẫn tới chế tài thưởng
phạt nào dành cho họ?
TS. Trần Hậu Ngọc:
Hiện nay Bộ KH&CN đang phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng một cơ
chế tài chính mới cho các tổ chức KH&CN, trong đó nguồn kinh phí tài trợ
của Nhà nước không căn cứ theo số lượng biên chế mà chỉ căn cứ trên kết quả
hoạt động. Ngoài ra, với những tổ chức KH&CN có tính chất đặc thù với nguồn
tài chính chủ yếu là kinh phí hoạt động thường xuyên tính theo đầu biên chế do
Nhà nước tài trợ, việc đánh giá vẫn có thể áp dụng cho những đối tượng này và
nếu kết quả đánh giá cho thấy họ hoạt động không hiệu quả thì đó có thể là cơ
sở để các cơ quan chủ quản cấp trên đưa ra những giải pháp can thiệp, điều
chỉnh cần thiết.
Dự kiến khi nào thì
việc đánh giá tổ chức KH&CN sẽ bắt buộc áp dụng cho tất cả các tổ chức KH&CN
công lập?
TS. Trần Hậu Ngọc:
Theo tinh thần Luật KH&CN hiện hành, các tổ chức KH&CN phải được đánh
giá để phục vụ công tác quản lý Nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay các cơ quan quản
lý KH&CN vẫn chưa có qui định cụ thể về chu kỳ đánh giá của các tổ chức KH&CN.
Vấn đề này, Ban Soạn thảo thông tư qui định việc Đánh giá tổ chức KH&CN
đang nghiên cứu để kiến nghị các cấp có thẩm quyền quyết định.
Khi tiến hành triển
khai đánh giá tổ chức KH&CN, làm cách nào để đảm bảo công tác này diễn ra
một cách công bằng và khách quan?
Bà Nguyễn Thị Thu
Oanh: Kết quả đánh giá phải công khai, (tuy nhiên để đảm bảo tính
khách quan trong đánh giá, thường không công bố cụ thể ý kiến đánh giá của ai).
Đồng thời cần có sự đồng thuận về kết quả đánh giá giữa cơ quan thực hiện
đánh giá và tổ chức bị đánh giá. Đối tượng bị đánh giá phải có quyền phản
hồi, chỉ ra những nội dung đánh giá chưa phù hợp, thiếu khách quan. Tương tự
như vậy, trong quá trình xây dựng các tiêu chí và phương pháp đánh giá, chúng
tôi cũng lấy ý kiến từ các tổ chức KH&CN và triển khai đánh giá thử ở một
số tổ chức nghiên cứu.
Công tác đánh giá sẽ
phải bắt đầu từ đâu?
Bà Nguyễn Thị Thu
Oanh: Theo tôi, trước mắt các viện nghiên cứu của một số ngành
trọng điểm sẽ được hướng dẫn để tiến hành tự đánh giá, sau khi việc tự đánh giá
này đã trở nên quen thuộc và đi vào nề nếp thì chúng ta mới có thể triển khai đánh
giá độc lập và trên diện rộng. Chúng ta có thể thử nghiệm công tác đánh giá và
chế tài thưởng phạt qua nguồn kinh phí phân bổ ở một số viện nghiên cứu
lớn. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy các viện nghiên cứu có kết quả hoạt động tốt
luôn muốn được đánh giá để thể hiện năng lực của mình.
Xin trân trọng cảm ơn
ông, bà.