Gỡ nút thắt cho tổ chức khoa học công nghệ khi chuyển đổi sang cơ chế tự chủ
Nghị định 115/2005/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ (KHCN) công lập, được xem như khoán 10 trong khoa học do có nhiều đổi thay mang tính đột phá. Song, việc thực hiện văn bản này trên thực tế còn nhiều vướng mắc - nút thắt cổ chai đã tồn tại quá lâu - cần tập trung tháo gỡ.
Được hay mất?
Theo thống kê của Bộ KH-CN, số lượng
các tổ chức KHCN của Nhà nước chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm chưa đạt tiến độ như mong muốn. Trong số 571 tổ chức KHCN mới chỉ có 249
tổ chức được phê duyệt sang loại hình tự trang trải kinh phí hoạt động thường
xuyên. Đáng nói là việc phê duyệt này nhiều khi mang tính đối phó do thời hạn
được quy định trong Nghị định 115/2005 và Nghị định 96/2010 (sửa đổi, bổ sung Nghị
định 115/2005) sắp đến gần. Nguyên nhân là do nhiều tổ chức KHCN ngại chuyển
đổi sang cơ chế tự chủ, vẫn còn tư tưởng ỷ lại vào sự bao cấp của nhà nước.
Ts Hồ Ngọc Luật - Vụ trưởng Vụ Phát
triển KHCN địa phương, Bộ KH-CN nhận định, điều đó bắt nguồn từ việc triển khai
thực hiện Nghị định 115/2005 tại nhiều địa phương thiếu thống nhất, gây ảnh
hưởng tới tâm lý của các tổ chức KHCN trong diện chuyển đổi. Đơn cử như số cán
bộ của trung tâm ứng dụng tiến bộ KHCN thuộc diện chuyển đổi của một tỉnh miền
núi không được đưa vào danh sách viên chức. Có địa phương lại chủ trương đưa số
biên chế của Trung tâm thông tin KHCN (đã chuyển đổi theo Nghị định 115/2005)
ra khỏi tổng số biên chế của thành phố. Trong khi nhiều nơi lại thực hiện rút bớt
kinh phí hoạt động thường xuyên của các trung tâm đã chuyển đổi và dự kiến đến
năm 2015, sẽ không cấp kinh phí hoạt động thường xuyên nữa. Do vậy, nhiều tổ
chức KHCN sẽ có cảm giác như bị bỏ rơi hay bị đẩy ra ngoài hệ
thống.
Bên cạnh đó, vì chưa nhận biết rõ
những cái được khi thực hiện Nghị định 115, không ít tổ chức nằm trong
diện chuyển đổi có nguồn nhân lực và cơ sở vật chất hạn chế tỏ ra lo ngại, sau
khi chuyển đổi sẽ khó hoạt động hiệu quả, nguồn thu bị hạn chế do không có hoặc
ít sản phẩm KHCN được thương mại hóa. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nhiều tổ
chức sau khi chuyển đổi lại có nguồn kinh phí từ các nhiệm vụ và dịch vụ KHCN
lớn hơn rất nhiều lần so với kinh phí hoạt động thường xuyên do Nhà nước cấp
trước đây. Trong đó phải kể tới Viện Khoa học Vật liệu, Viện Công nghệ Sinh
học, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I, Viện Cơ khí Năng lượng mỏ… có nguồn
thu từ các nhiệm vụ KHCN từ vài chục tới hàng trăm tỷ đồng mỗi năm. Đặc biệt,
tỷ trọng doanh thu từ hoạt động tự chủ chiếm tới 90% tổng doanh thu. Đó là
những minh chứng cho thấy, chính sách chuyển đổi sang mô hình tự chủ, tự chịu
trách nhiệm không chỉ tạo chuyển biến tích cực trong cơ chế quản lý của các đơn
vị nghiên cứu, ứng dụng KHCN mà còn góp phần giải phóng sức sáng tạo của nhà
khoa học, mang tới doanh thu và lợi nhuận lớn cho các tổ chức này.
Gỡ vướng
Như đã khẳng định ở trên, nút thắt đầu
tiên và quan trọng nhất cần tháo gỡ chính là nhận thức của các tổ chức KHCN nằm
trong diện chuyển đổi. Không ít chuyên gia cho rằng, cần thống nhất nhận thức
trong toàn xã hội, trong cộng đồng KHCN cũng như các bộ, ngành có liên quan
nhằm, cải thiện tình trạng hiểu và nhận thức khác nhau về những vấn đề cơ bản.
Theo đó, trước hết các tổ chức KHCN
cần thấy rằng, họ không hề bị bỏ rơi. Bởi theo khoản 5, Điều 4 Nghị
định 96/2010, tổ chức KHCN thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo
quy định vẫn tiếp tục là đơn vị sự nghiệp KHCN của nhà nước (trừ trường hợp
toàn bộ tổ chức chuyển đổi để thành lập doanh nghiệp KHCN). Bên cạnh đó, tổ
chức KHCN công lập cũng được nhà nước giao biên chế, theo quy định tại Điều 13
Luật KHCN 2013, tức là được giao kinh phí hoạt động thường xuyên theo chức năng
như tiền lương, tiền công, tiền chi hoạt động bộ máy hoặc các nhiệm vụ thường xuyên
theo chức năng khác. Chưa hết, các tổ chức này còn được cấp vốn đầu tư xây dựng
cơ bản, vốn đối ứng của các dự án, kinh phí mua sắm trang thiết bị và sửa chữa
tài sản cố định, bố trí trong phạm vi dự toán chi ngân sách được cấp có thẩm
quyền phê duyệt.
Có một thực tế là các bộ, ngành, địa
phương đã đủ cơ sở để tổ chức triển khai thực hiện Nghị định 115/2005 song do
chưa phân loại được tổ chức KHCN trong diện chuyển đổi nên còn lúng túng khi
cấp các loại kinh phí như kinh phí hoạt động thường xuyên, nhiệm vụ KHCN của
nhà nước hay đầu tư cơ bản. Do vậy, để minh bạch trong quá trình cấp kinh phí,
cần phải xây dựng quy định phân loại mức độ tự chủ, đưa ra những tiêu chí rõ ràng,
phù hợp đánh giá tính chất đặc thù của các sản phẩm nghiên cứu mà tổ chức KHCN
làm ra trong thực tế, từ đó xác định đâu là những tổ chức nghiên cứu cơ bản cần
được Nhà nước tài trợ nguồn kinh phí hoạt động thường xuyên và đâu là những tổ
chức làm nghiên cứu ứng dụng và dịch vụ KHCN tự chủ toàn phần hay một phần.
Mặc dù theo điều 16 Nghị định
115/2005, các bộ, ngành chuyên trách chủ trì phải xây dựng và ban hành văn bản
hướng dẫn quy chế chi tiêu nội bộ, lập dự toán, quyết toán hoạt động tài chính
của các tổ chức KHCN nhưng cho tới nay, sau gần 9 năm thực hiện Nghị định vẫn
chưa có văn bản hướng dẫn về tài chính cho các tổ chức KHCN thực hiện chuyển
đổi. “Đây là nút thắt cổ chai đã tồn tại quá lâu mà các bộ, ngành cần
tập trung tháo gỡ, tránh để lãng phí nguồn nhân lực đất nước” - Ts Hồ Ngọc Luật
khuyến nghị.
Báo điện tử Đại biểu nhân dân (nthieu)