Việc quy hoạch mạng lưới tổ chức KH&CN công lập là rất cần thiết để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đầu tư của nhà nước, tập trung nguồn lực cho những tổ chức có năng lực nghiên cứu hoặc các lĩnh vực KH&CN trọng điểm, xóa bỏ tình trạng đầu tư dàn trải gây lãng phí nguồn lực. Tuy nhiên, chúng ta đang tiến hành xây dựng quy hoạch theo một quy trình ngược, khó tránh khỏi sức ỳ và lực cản rất lớn từ hệ thống hiện hành, vì vậy sẽ cần một quyết tâm chính trị thực sự mạnh mẽ từ cấp cao nhất.
Hiện nay, hệ thống tổ chức KH&CN công lập ở Việt Nam khá cồng kềnh
với hơn 1.000 thành viên – bao gồm các đơn vị trực thuộc bộ ngành, địa phương
trên toàn quốc và tồn tại dưới nhiều hình thức như viện nghiên cứu, trung tâm
và nhiều loại hình tổ chức khác – lâu nay đã bộc lộ những điểm yếu như chồng
chéo về chức năng nhiệm vụ của nhiều đơn vị, thậm chí ngay trong cùng một bộ,
ngành; thiếu liên kết giữa các đơn vị cùng lĩnh vực nghiên cứu, dẫn đến việc
trùng lặp các đề tài/dự án hoặc chỉ có thể thực hiện được những nhiệm vụ
KH&CN nhỏ mang tính trước mắt mà không giải quyết được những vấn đề lớn, có
ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển của đất nước.
Vì vậy, vấn đề quy hoạch mạng lưới các tổ chức KH&CN công lập đã
được nêu lên trong Luật KH&CN do Quốc hội ban hành ngày 18/6/2013 và Bộ
KH&CN đang phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng để trình Thủ tướng
Chính phủ quy hoạch mạng lưới tổ chức KH&CN công lập, trong đó bao gồm các
điểm nút là các tổ chức KH&CN, kèm theo đó là các mối liên kết chặt chẽ
giữa các điểm nút theo ngành, lĩnh vực nghiên cứu được phân bố hợp lý trên phạm
vi quốc gia. Việc tạo dựng mạng lưới này một cách khoa học, hợp lý không chỉ
giải quyết được bài toán nâng cao hiệu quả nguồn lực đầu tư, nâng cao hiệu quả
hoạt động của các tổ chức mà còn góp phần làm lành mạnh hóa môi trường
KH&CN Việt Nam.
Ngược chiều xu thế quy hoạch thông thường
Tuy nhiên đây lại là một chu trình ngược chiều với xu thế quy hoạch
thông thường: công việc quy hoạch đáng lẽ phải được thực hiện trước khi bắt tay
xây dựng một hệ thống tổ chức, còn ở đây, chúng ta tái thiết trên cơ sở những
gì đã có và được vận hành với sức ỳ trong tư duy tương đối lớn, hậu quả sau một
quãng thời gian dài hoạt động theo cơ chế quản lý quan liêu bao cấp. Nhiều khó
khăn do đó đã nảy sinh, mà tựu trung là vướng mắc về quan điểm quy hoạch và
cách thức triển khai cấp kinh phí theo nhiệm vụ sau quy hoạch ở các tổ chức
KH&CN công lập.
Thứ nhất, còn tồn tại nhiều bất đồng về quan điểm quy hoạch. Theo cơ cấu
tổ chức hiện nay, mỗi bộ, ngành đều quản lý một số viện nghiên cứu, đặc biệt
tại một số viện lớn của bộ đều được tổ chức theo mô hình “n trong một”, bao gồm
một viện lớn và nhiều viện thành viên cùng các trung tâm nghiên cứu. Việc sáp
nhập hay giải thể những tổ chức dù mang tính chất trùng lặp về chức năng nhiệm
vụ với nhiều tổ chức khác cùng bộ cũng vẫn gặp phải phản ứng mạnh mẽ từ các
viện lớn hay bộ chủ quản, không cho phép thực hiện việc “cắt xén” ảnh hưởng đến
quy mô tổ chức và tầm ảnh hưởng của mình. Ngay cả trong trường hợp Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt quy hoạch mạng lưới tổ chức KH&CN công lập theo hướng
quy hoạch gắn với tái cấu trúc hệ thống tổ chức KH&CN công lập thì việc
triển khai thực hiện quyết định này sẽ gặp không ít vướng mắc bởi việc thành
lập, cấu trúc lại hay giải thể các tổ chức KH&CN công lập vẫn phải được
thực hiện theo Nghị định số 55/2012/NĐ-CP của Chính phủ. Về nguyên tắc, quyết
định của Thủ tướng Chính phủ không thể thay thế được những văn bản có giá trị
pháp lý cao hơn như Nghị định hay Luật.
Thứ hai, nhiều tổ chức KH&CN công lập quen ỷ lại vào cơ chế hiện
hành lâu nay và không muốn chuyển đổi sang triển khai cấp kinh phí theo nhiệm
vụ. Năm 2014, để từng bước đổi mới về cơ chế quản lý, hướng tới thực hiện cấp
kinh phí hằng năm theo nhiệm vụ, Bộ KH&CN đã phối hợp với Bộ Tài chính ban
hành Thông tư liên tịch số 121/2014/TTLT-BTC-BKHCN hướng dẫn các tổ chức
KH&CN công lập xây dựng dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí
thực hiện nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng của mình, qua đó bước đầu đã đem
lại sự minh bạch, sòng phẳng trong cơ chế quản lý tài chính đối với các tổ chức
KH&CN công lập. Tuy nhiên, việc triển khai áp dụng Thông tư này chỉ thuận
lợi với những tổ chức KH&CN đã tự trang trải kinh phí hoạt động thường
xuyên, tức là những tổ chức không được cấp kinh phí hoạt động thường xuyên theo
phương thức khoán. Còn những tổ chức vẫn quen hoạt động theo cơ chế bao cấp lại
không mấy mặn mà với việc chuyển đổi này.
Cần một quyết tâm chính trị
Để vượt qua những khó khăn, vướng mắc mà bài toán quy hoạch mạng lưới
các tổ chức KH&CN công lập gắn với việc tái thiết hoạt động của các tổ chức
này, cần phải có một quyết tâm chính trị mạnh mẽ và đồng bộ từ các cấp quản lý
đến những người thực hiện quy hoạch.
Song
song với việc quy hoạch, cần phải có những cơ chế hợp lý về cách thức sử dụng
ngân sách nhà nước, tránh xảy ra trường hợp “bình mới, rượu cũ” khi chỉ thay
đổi diện mạo bên ngoài của hệ thống trong khi sự trì trệ, ỷ lại vẫn tiếp tục
duy trì từ bên trong tổ chức.
|
Ở đây, chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm từ bài học thành công của việc
tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Nhờ có Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa
XI) về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban Chỉ đạo Đổi mới và
Phát triển doanh nghiệp do Phó Thủ tướng Chính phủ làm trưởng ban và thành viên
là đại diện lãnh đạo các bộ, ngành liên quan chỉ đạo, hướng dẫn triển khai,
kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, sắp xếp công tác đổi mới doanh nghiệp nhà
nước; yêu cầu các bộ, ngành, địa phương kiên quyết và quyết liệt trong việc sắp
xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trực thuộc. Với cách làm quyết liệt và hiệu
quả như vậy, việc sắp xếp, đổi mới và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước đã đạt
được thành công, giảm số lượng doanh nghiệp nhà nước từ một vạn vào năm 1992
đến nay còn lại gần 1.000.
Nhiệm vụ quy hoạch các tổ chức KH&CN công lập cũng sẽ cần một quyết
tâm chính trị và sự chỉ đạo quyết liệt tương tự như vậy, coi đó là yếu tố quan
trọng tạo ra đột phá trong khâu quản lý cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động
của các tổ chức KH&CN công lập.
Tuy nhiên, trong công tác quy hoạch, cũng cần phải có cả sự tham gia một
cách chủ động và tích cực của đối tượng được quy hoạch, tức là các tổ chức
KH&CN công lập. Bản thân các tổ chức này cũng nên tự trao đổi, thống nhất
quan điểm hợp tác với nhau, qua đó báo cáo với các cấp lãnh đạo có thẩm quyền
về việc hợp nhất, sáp nhập những tổ chức có cùng nhiệm vụ, chức năng, phạm vi
hoạt động.
Tránh "bình mới rượu cũ"
Nhằm bảo đảm tính hiệu quả của các tổ chức KH&CN công lập, song song
với việc quy hoạch cần phải có những cơ chế hợp lý về cách thức sử dụng ngân
sách nhà nước, tránh xảy ra trường hợp “bình mới, rượu cũ” khi chỉ thay đổi
diện mạo bên ngoài của hệ thống trong khi sự trì trệ, ỷ lại vẫn tiếp tục duy
trì từ bên trong tổ chức.
Trước hết, để tiếp tục thúc đẩy xu hướng tự chủ hóa của các tổ chức
KH&CN công lập, Bộ KH&CN đang chủ trì xây dựng một nghị định mới theo
tinh thần của Nghị định 16/2015/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự
nghiệp công lập, để thay thế Nghị định 115/2005/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ,
tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập. Nghị định mới này sẽ khắc
phục được tâm lý ỷ lại, trông chờ vào bao cấp, đồng thời nâng cao quyền tự chủ
của tổ chức KH&CN công lập. Bên cạnh đó, vai trò của người lãnh đạo tổ chức
KH&CN sẽ được nâng lên nhằm tạo điều kiện cho họ phát huy tinh thần tự quyết
và nâng cao vai trò quản lý, góp phần xóa bỏ những yếu tố phi khoa học trong bộ
máy tổ chức.
Mặt khác, chúng ta cũng cần xây dựng thực hiện tốt cơ chế đánh giá, thẩm
định năng lực, hiệu quả quy trình hoạt động của các tổ chức KH&CN công lập
sau quy hoạch theo cách thức mà các nền KH&CN tiên tiến đã áp dụng như kiểm
tra chéo, chấm điểm hoạt động, mời chuyên gia đánh giá độc lập và coi đây là
yếu tố quan trọng hàng đầu để duy trì được môi trường khoa học minh bạch và
khách quan.