Rơm rạ - “mỏ” kali và công bố quốc tế
Công trình “Nghiên cứu sự giải phóng kali đi kèm với quá trình hòa tan phytolith trong rơm rạ” là cơ sở khoa học cho các biện pháp quản lý và tận dụng tối đa lợi ích mang lại từ nguồn “tài nguyên” rơm rạ dồi dào ở nước ta, đưa ra gợi ý về khả năng tách chiết kali từ rơm rạ để sản xuất phân bón. Công trình được thực hiện bởi PGS.TS. Nguyễn Ngọc Minh, Giảng viên Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội cùng các cộng sự trong và ngoài nước. Đây là một trong 6 công trình có trong danh sách đề cử Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2016. Nhân dịp này, chúng tôi đã phỏng vấn PGS.TS. Nguyễn Ngọc Minh.
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Minh
PV: Xin ông cho biết thông tin chung về công trình được đề cử giải
thưởng Tạ Quang Bửu 2016?
- PGS.TS. Nguyễn Ngọc Minh: Công trình có tên “Release of
potassium accompanying the dissolution of rice straw phytolith” (Nghiên cứu sự
giải phóng kali đi kèm với quá trình hòa tan phytolith trong rơm rạ) được công
bố trên tạp chí Chemosphere năm 2015.
Công trình nghiên cứu được tiến hành trong thời gian từ
năm 2011 đến 2015 với sự hỗ trợ của các cộng sự tại Bộ môn Thổ nhưỡng và Môi
trường đất, Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia
Hà Nội cùng các chuyên gia nước ngoài đến từ Viện Khoa học đất Hannover (CHLB Đức)
và Trường đại học Indiana (Hoa Kỳ).
PV: Nghiên cứu này mang ý nghĩa và có thể ứng dụng thế nào vào đời sống,
thưa ông?
- Cây lúa trong quá trình sinh trưởng và phát triển
có nhu cầu rất lớn về kali. Nguyên tố này được hút thu và tích lũy chủ yếu
trong các mô bào thân cây và lá lúa. Sau khi thu hoạch kali nằm nằm lại trong
phần rơm rạ. Tuy nhiên, hiện có rất ít thông tin nghiên cứu về dạng tồn tại
cũng như khả năng tái sử dụng lượng kali này.
Nghiên cứu này được thực hiện để cung cấp thêm những
thông tin chuyên sâu về thành phần và đặc tính của rơm rạ, là cơ sở khoa học
cho các biện pháp quản lý và tận dụng tối đa lợi ích mang lại từ nguồn “tài
nguyên” rơm rạ vô cùng dồi dào ở nước ta, mặt khác cảnh tỉnh việc xuất khẩu rơm
rạ (chứa lượng rất lớn kali và các chất dinh dưỡng khác) có thể gây tổn thất
kinh tế cho người dân khi họ phải tái đầu tư một lượng phân bón nhiều hơn cho
cây trồng.
Bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng gợi ý về khả năng tách
chiết kali từ rơm rạ để sản xuất phân bón. Phân kali là loại phân bón chúng ta
đang phải nhập khẩu hoàn toàn từ nước ngoài vì vậy việc tách chiết và tái sử dụng
sẽ đem lại hiệu quả to lớn cho người dân.
|
PGS.TS.Nguyễn
Ngọc Minh với đồng nghiệp người nước ngoài |
PV: Đâu là lí do để ông cùng các đồng sự thực hiện nghiên cứu này?
- Trong những năm gần đây, tình trạng đốt rơm rạ
ngoài đồng ruộng ở những khu vực ven đô gia tăng đáng kể. Việc đốt loại sinh khối
“dư thừa” này đã và đang gây ra những vấn đề môi trường như gây khói bụi, lãng
phí năng lượng và ảnh hưởng đến khu hệ vi sinh vật đất. Tuy nhiên, có nên dừng
việc đốt rơm rạ hay không và liệu có giải pháp nào thay thế cho việc đốt rơm rạ
trên đồng ruộng hay không vẫn là một câu hỏi mở chưa có lời giải đáp.
Nguyên nhân của sự “lúng túng” trong việc tìm ra giải
pháp xử lý rơm rạ là do chúng ta chưa hiểu hết đặc điểm, thành phần của rơm rạ
và qua đó cũng chưa thấy được hết giá trị và ý nghĩa môi trường của loại phụ phẩm
nông nghiệp này. Đây chính là động cơ thúc đẩy nhóm chúng tôi tiến hành nghiên
cứu này.
PV: Hướng nghiên cứu mà nhóm nghiên cứu của ông quan tâm hiện nay là
gì?
- Ngoài hướng nghiên cứu về đặc điểm của phytolith
trong rơm rạ và chuyển hóa của phytolith trong môi trường đất, hiện nay tôi
đang tập trung nghiên cứu về ảnh hưởng của phytolith đến sự cố định cacbon
trong môi trường đất.
Đây là một trong những hướng nghiên cứu mới, có tính toàn
cầu và đang được cộng đồng khoa học thế giới quan tâm.
Tuy nhiên, với những trang thiết bị hiện có tại các phòng
thí nghiệm trực thuộc Khoa Môi trường nơi tôi đang công tác thì việc triển nội
dung nghiên cứu này là rất khó khăn. Có thể tôi sẽ tăng cường hợp tác với các bạn
đồng nghiệp ở các phòng thí khác trong và ngoài trường, cũng như tận dụng mối
quan hệ với các đồng nghiệp từ các nước phát triển (Đức, Anh và Hoa Kỳ) để phát
triển hướng nghiên cứu này.
PV: Là một nhà khoa học có nhiều công bố quốc tế, dưới góc nhìn của
ông, việc công bố quốc tế có ý nghĩa thế nào với nhà khoa học?
-Công bố kết quả nghiên cứu khoa học vừa là nghĩa vụ vừa
là trách nhiệm của những người làm khoa học. Việc công bố kết quả nghiên cứu
chính là để góp phần làm phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại, chuyển
tải thông tin đến cộng đồng và để phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội nói
chung.
Công bố quốc tế hiện có thể coi là thước đo chuẩn mực cho
nỗ lực nghiên cứu của các nhà khoa học, danh tiếng của các trường đại học, các
viện nghiên cứu hay thậm chí là thước đo đánh giá trình độ khoa học kỹ thuật của
một quốc gia. Do đó, công bố quốc tế nhất thiết phải được khuyến khích và là ưu
tiên hàng đầu của các cơ sở nghiên cứu và đào tạo trong nước.
Ngoài ra, công bố quốc tế còn là một “thông số” phản ánh
mức độ hội nhập của cộng đồng khoa học trong nước với cộng đồng khoa học quốc tế.
Gia tăng số lượng công bố quốc tế chính là bước xác lập vị thế khoa học nước
nhà trên trường quốc tế, đặt nền tảng tốt hơn cho các nhà khoa học trong nước
tham gia vào các diễn đàn khoa học quốc tế đa phương và tham gia giải quyết những
vấn đề có tính chất châu lục hay toàn cầu.
PV: Quan điểm của ông về vấn đề giảng viên - nhà khoa học; đào tạo gắn
với nghiên cứu; đào tạo thông qua nghiên cứu?
- Đây là xu hướng chung của rất nhiều các cơ sở đào
tạo ở các nước tiên tiến. Nhà khoa học được giảm tải giảng dạy để tăng thời lượng
làm nghiên cứu có thể sẽ giúp tăng năng suất và hiệu quả nghiên cứu khoa học.
Hoạt động nghiên cứu khoa học tạo ra “nguyên liệu” bổ sung cho giảng dạy và
giúp tăng cường gắn kết lý thuyết với thực tiễn. Ngược lại, đào tạo sẽ là hoạt
động góp phần chuyển tải và lan tỏa những thành tựu có được từ nghiên cứu.
PV: Khó khăn của nhà khoa học hiện nay là gì? Điều gì đang là lực cản
cho việc nghiên cứu của nhà khoa học, thưa ông?
- Theo ý kiến của cá nhân tôi thì khó khăn nhất của
các nhà khoa học hiện nay chính là sự thiếu gắn kết giữa các nhà khoa học.
Sự thiếu gắn kết trong nghiên cứu một mặt làm giảm sức mạnh
tổng hợp về kiến thức cũng như kinh nghiệm của tập thể, mặt khác làm cho việc tận
dụng trang thiết bị hay huy động các nguồn lực phục vụ nghiên cứu trở nên khó
khăn hơn. Thiếu gắn kết thậm chí có thể dẫn đến những hiệu ứng tiêu cực, bài trừ
và kìm hãm lẫn nhau trong nghiên cứu khoa học.
Trở ngại thứ hai liên quan đến vấn đề về trang thiết bị.
Sự thiếu đồng bộ trong đầu tư thiết bị hoặc điều kiện bảo trì không đảm bảo làm
cho hệ thống trang thiết bị thường nhanh chóng bị xuống cấp và hoạt động kém hiệu
quả.
Một số trở ngại khác có thể kể đến ví dụ như kinh phí
nghiên cứu hạn hẹp, hay thiếu các hoạt động hỗ trợ phát triển chuyên môn (hội
thảo khoa học, trao đổi đào tạo…).
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
www.truyenthongkhoahoc.vn(lntrang)