Nền tảng khoa học công nghệ về biến đổi khí hậu
Sau 5 năm triển khai (2011-2015), Chương trình Khoa học và công nghệ phục vụ Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu đã hoàn tất. 48 đề tài hoàn thành đã thu thập được hệ thống số liệu, cơ sở khoa học, hệ phương pháp nghiên cứu góp phân đánh giá, dự báo, đưa ra giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu.
* Thiết lập cơ sở khoa học
Trong số 48 đề tài của
chương trình có 11 đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở khoa học xây dựng cơ sở dữ
liệu về biến đổi khí hậu; bản chất khoa học của biến đổi khí hậu… Đây là những
nghiên cứu nền tảng, tạo nền móng cho những nghiên cứu chuyên sâu trong tương
lai. Điều đáng nói là các nghiên cứu này đều có thử nghiệm thực tế, sử dụng các
công nghệ tính toán hiện đại, thậm chí dùng nhiều phương pháp để cho kết quả tối
ưu.
Có thể kể đến đề tài “Xây
dựng cơ sở dữ liệu khoa học và thực tiến nhằm thiết lập hệ thống giám sát tác động
của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đối với chất lượng môi trường nước mặt lục
địa” do TS. Tăng Thế Cường (Trung tâm Quan trắc môi trường) làm chủ nhiệm. Nhóm
nghiên cứu đã vận hành Chương trình quan trắc thủ công và kết quả thiết kế, triển
khai thử nghiệm hệ thống giám sát tại đồng bằng sông Cửu Long. Từ nghiên cứu và
thử nghiệm, đề tài đã thiết lập được mô hình tổng kết hệ thống giám sát tác động
của BĐKH và NBD đối với chất lượng nước mặt lục địa.
Cũng để phục vụ giám sát
khí hậu, TS. Bùi Văn Đức (Trung tâm Ứng dụng công nghệ và bồi dưỡng nghiệp
vụ KTTV) giải quyết vấn đề xây dựng mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn hải
văn; hai nhà khoa học Nguyễn Hữu Chính, Bùi Tá Long (Cục Công nghệ thông tin)
nghiên cứu việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về BĐKH; TS. Nguyễn Minh Khuyến
(Trung tâm công nghệ tài nguyên nước) lại nghiên cứu thiết lập hệ thống quan trắc
– giám sát BĐKH đến nguồn nước mặt nước ngầm và thử nghiệm trên sông Mã; TS.
Nguyễn Xuân Lâm (Cục Viễn thám quốc gia) nghiên cứu ứng dụng công nghệ viễn
thám…
Đi về vấn đề cụ thể, PGS.
TS. Ngô Lê Long (Viện Thủy văn môi trường và Biến đổi khí hậu – Đại học Thủy lợi)
nghiên cứu, đề xuất các tiêu chuẩn thiết kế lũ, đê biển; nhóm của TS. Mai Văn
Khiêm (Viện khoa học KTTV và BĐKH) đã thành lập tập bản đồ kịch bản BĐKH (180 bản
đồ, Tập Atlas khí hậu và BĐKH (95 bản đồ); TS. Nguyễn Văn Hiệp (Viện khoa học
KTTV và BĐKH) thì nghiên cứu luận cứ khoa học cập nhật kịch bản BĐKH và NBD cho
Việt Nam.
* Đánh giá tác động
25/48 đề tài (chiếm 52%)
tập trung vào việc đánh giá tác động của biến đổi khí hậu tới các vùng, các nguồn
tài nguyên. Nội dung này được xem là có tính thực tiễn cao bởi kết quả từ các
nghiên cứu có thể phục vụ ngay việc hoạch định chính sách, lồng ghép các vấn đề
BĐKH vào cuộc sống.
Các lĩnh vực nghiên cứu
khá rộng, từ y học đến tài nguyên đất - nước, từ nông nghiệp đến đa dạng sinh học,
từ liên kết vùng đến đánh giá mức độ tổn thương… Đặc biệt, qua nghiên cứu, nhóm
đề tài này đã có 13 phát hện mới, gồm 2 phát hiện về viurs, ký sinh trùng, 5
phát hiện về địa chất và 6 cơ chế về chính sách liên kết vùng.
Một số đề tài có khả năng
ứng dụng cao. Có thể kể đến sau khi nghiên cứu, TS. Lại Tiến Dũng (Viện Bảo vệ
thực vật) đã tìm dược 9 dòng lúa chịu hạn, thích ứng với BĐKH ưu tú và đề xuất
đưa 2 giongsoLC93-2, LCH48(A17) vào sản xuất thử nghiệm.
Từ nghiên cứu ảnh hưởng của
BĐKH đến các bệnh truyền nhiễm, nhóm tác giả PGS. TS. Vũ Xuân Nghĩa (Học viện
Quân y) đã có những phát hiện mới về virus gây bệnh sốt xuất huyết và phát hiện
loài ký sinh trùng sốt rét mới.
Ngay từ khi tiến hành
nghiên cứu, đề tài “Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách liên két vùng trong ứng
phó với BĐKH ở Việt Nam) của nhóm tác giá TS. Nguyễn Song Tùng (Viện Địa lý
nhân văn) đã rất thu hút dư luận. Vấn đề mới, có khá nhiều bất cập nên khi giải
quyết ngọn ngành, các tác giả đã đưa ra 6 phát hiện mới cần nghiên cứu để hoàn
thiện cơ chế chính sách liên vùng. Đó là vấn đề phối hợp liên ngành, liên địa
phương, lồng ghép BĐKH vào quy hoạch, khuyến khích các địa phương tự liên kết,
tìm “nhạc trưởng” trong liên kết vùng…
Giải pháp từ chính sách để thực tiễn
Khẳng định biến đổi khí hậu
phần lớn do con người gây nên và nhanh chóng tìm cách ứng phó, các nhà khoa học
Việt Nam đã nhanh chóng vào cuộc tìm các giải pháp ứng phó. Thích ứng và giảm
thiểu đều cần thiết để ứng phó về lâu dài.
Về thích ứng, nhiều giải
pháp đã được các nhà khoa học đề xuất xây dựng mô hình làng sinh thái theo chu
trình khép kính (TS. Nguyễn Đức Toàn – Trung tâm tư vấn và công nghệ môi trường),
tìm giống lúa chịu hạn, công nghệ neo trong đất để gia cố đê biển sử dụng làm nền
đường ô tô (TS. Đỗ Ngọc Viện – Đại học công nghệ giao thông vận tải), ổn định
và liên kết các giồng cát ven biển tạo thành đê biển tự nhiên (ThS. Lê Ngọc
Cương – Viện Sinh thái và Bảo vệ công trình)…
Về giảm thiểu tác động, rất
nhiều giải pháp từ vi mô đến vĩ mô liên quan đến giảm khí nhà kính. Có thể kể đến
nghiên cứu định hướng và các phương án giảm phát thải khí nhà kính (TS. Nguyễn
Văn Tài – Viện Chiến lược và Chính sách TN&MT), phương án đàm phát khung của
Việt Nam về BĐKH (ThS. Trần Thị Minh Hà – Viện Khoa học KTTV và BĐKH), cơ chế
chính sách đổi mới công nghệ để giảm thiểu khí nhà kính (TS. Đỗ Hữu Hào, Hiệp hội
Công nghiệp môi trường Việt Nam).
Cụ thể hơn là nghiên cứu
công nghệ cất giữ CO2 trong các hệ tầng, cấu trúc địa chất ở miền Bắc (TS. Hồ Hữu
Hiếu – Viện khoa học công nghệ địa chất và khoáng sản); giảm thải CO trong lĩnh
vực sản xuất gạch, ngói, gốm sứ (TS. Nguyễn Duy Động, Viện khoa học và kỹ thuật
môi trường); nâng cao đặc tính trở nhiệt cho vỏ kết cấu của các tòa nhà đô thị
(ThS. Nguyễn Sơn Lâm, Viện khoa học công nghệ xây dựng); sử dụng hợp lý đất
phen đồng bằng sông Cửu Long (PG.TS. Ngô Ngọc Hưng, Đại học Cần Thơ)…
Đào tạo nhân lực
Bên cạnh các kết quả
nghiên cứu, Chương trình Khoa học và công nghệ phục vụ Chương trình mục tiêu quốc
gia ứng phó với BĐKH còn có thành tựu trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao trong lĩnh vực còn khá thiếu này.
Thông qua kết quả nghiên
cứu của 48 đề tài đã và đang hỗ trợ đào tạo 38 tiến sĩ, 95 thạc sĩ, nhiều kỹ
sư/ cử nhân trong các chuyên ngành liên quan đến BĐKH. Qua đây cũng huy động
trên 1.000 lượt cán bộ khoa học đến từ gần 100 tổ chức khoa học và công nghệ
trong nước tham gia nghiên cứu. Nhiều cán bộ được cử đi trao đổi hợp tác nghiên
cứu ở nước ngoài.
Đã có 186 bài báo được
công bố trong nước và 25 bài báo được công bố trên báo chí quốc tế. Thông qua
nghiên cứu, chương trình đã góp phần tích cực vào đào tạo, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực và mạng lưới khoa học của các đơn vị nghiên cứu trên cả nước.