Phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia phải có tính mở
Có nhiều yếu tố đem lại thành công của Phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia Lọc hóa dầu (Viện Hóa học công nghiệp - Tập đoàn Hóa chất Việt Nam), trong đó quan trọng nhất là thực hiện tốt việc nghiên cứu khoa học, làm ra những sản phẩm công nghệ hoàn chỉnh theo đặt hàng của doanh nghiệp và thiết lập một mạng lưới giữa các nhà khoa học trong và ngoài phòng thí nghiệm. Đó là quan điểm của PGS. TS Vũ Thị Thu Hà, Giám đốc Phòng thí nghiệm.
PGS.
TS Vũ Thị Thu Hà, Giám đốc Phòng thí nghiệm trọng điểm Quốc gia Lọc hóa dầu.
Theo chị, để đánh giá một
phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia cần căn cứ trên những tiêu chí nào?
Để trở thành một phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia hoạt
động hiệu quả, theo tôi phòng thí nghiệm đó cần phải đạt những tiêu chí chặt chẽ,
tập trung ở bốn điểm cơ bản: 1. Tạo ra những công trình nghiên cứu mang tính mới,
đạt trình độ khu vực và quốc tế, được công bố trên các tạp chí ISI hoặc tương
đương; 2. Tạo ra những sáng chế, công nghệ có thể triển khai được trong thực tiễn
và được các cơ quan chức năng trong nước hoặc quốc tế công nhận và cấp bản quyền;
3. Xây dựng và tập hợp được một đội ngũ, lực lượng các nhà nghiên cứu khoa học
đảm bảo cho sự phát triển của phòng thí nghiệm. 4. Đó là phòng thí nghiệm mở.
Mỗi
năm chúng tôi thường công bố khoảng 4 đến 5 bài ISI; đăng ký khoảng 10 sở hữu
công nghiệp trong và ngoài nước và được cấp khoảng 3 đến 4 chứng nhận; đào tạo
khoảng 8 nghiên cứu sinh; đưa vào áp dụng thực tiễn nhiều kết quả nghiên cứu
khoa học công nghệ, mang lại hiệu quả cao.
|
Với Phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia về Công nghệ lọc
hóa dầu, các nhiệm vụ công bố ISI, đăng ký sáng chế và triển khai ứng dụng công
nghệ được thực hiện song song, tùy theo tính chất của từng nhiệm vụ KH&CN cụ
thể. Để thực hiện được các mục tiêu đã đặt ra, ngay từ khi đi vào hoạt động,
năm 2008, chúng tôi đã đặt lên hàng đầu nhiệm vụ tạo ra đội ngũ cán bộ có năng
lực chuyên môn cao, có khả năng phát huy các thế mạnh về trang thiết bị để thực
hiện thành công các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ.
Chị có thể nói cụ thể
hơn về tiêu chí phòng thí nghiệm mở.
Sự khác biệt giữa phòng thí nghiệm thường với phòng thí
nghiệm trọng điểm quốc gia, theo tôi phòng thí nghiệm đó có thực sự là phòng
thí nghiệm mở hay không. Nếu nhà nước thiết lập hệ thống phòng thí nghiệm trọng
điểm và tập trung nguồn lực đầu tư thì mục tiêu của nó phải là tạo ra đột phá để
đem lại sự phát triển cho một lĩnh vực nghiên cứu hay thậm chí là một ngành.
Phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia không thể “đóng cửa” chỉ để phục vụ nội bộ
mà cần phải được mở cửa cho những nhà khoa học khác ngoài biên chế đơn vị cũng
như của cả các doanh nghiệp có nhu cầu đến khai thác các thiết bị của phòng thí
nghiệm, phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình. Vì vậy, đây chính là nét đặc
thù của một phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia.
Vậy
tính mở của Phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia Lọc hóa dầu là gì?
Tính mở của phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia cũng tùy
thuộc vào tính chất của từng ngành, từng lĩnh vực. Với phòng thí nghiệm trọng
điểm quốc gia Lọc hóa dầu (PTNTĐLHD), chúng tôi đã ít nhiều đạt được tiêu chí
này với cơ chế hợp tác rất cởi mở và rộng rãi với các cơ quan nghiên cứu khác
trong chuyên ngành của mình, ví dụ như Viện Hóa học (Viện Hàn lâm KH&CN Việt
Nam), Khoa Hóa Đại học KHTN (ĐHQGHN), Viện Kỹ thuật Hoá học và Viện Cơ khí động
lực - ĐH Bách khoa Hà Nội, ĐH Bách khoa – ĐH Đà Nẵng, ĐH Mỏ Địa chất… Cán bộ
nghiên cứu của các đơn vị này khi cần sử dụng thiết bị mà bản thân phòng thí
nghiệm họ thường sử dụng không có đã chủ động đến đặt vấn đề hợp tác với chúng
tôi. Hai bên sẽ cùng thống nhất phương thức làm việc phù hợp bởi có những đề
tài hai bên cùng xây dựng nội dung nghiên cứu, có thể thực hiện hoàn toàn hoặc
một phần ở phòng thí nghiệm này.
Việc thực hiện quy chế mở này đem lại nhiều thuận lợi cho
chính PTNTĐLHD, đơn cử là qua những hoạt động nghiên cứu chung như vậy, chúng
tôi đã tập hợp được một đội ngũ cán bộ nghiên cứu không thường xuyên và hình
thành một mạng lưới nghiên cứu, tạo ra được nhiều cơ hội thực hiện những đề tài
nghiên cứu mang tính liên ngành và liên vùng.
Ngoài ra, hoạt động hợp tác quốc tế của PTNTĐLHD rất đa dạng,
luôn mang lại hiệu quả cao và liên tục phát triển.
Thời gian gần đây, người
ta nói nhiều đến sự lãng phí trong việc mua sắm trang thiết bị hiện đại và đắt
tiền cho phòng thí nghiệm do thiếu người đủ khả năng vận hành hoặc khi có máy
móc lại không có được nhiệm vụ nghiên cứu phù hợp. Vậy PTNTĐLHD đã giải quyết vấn
đề này như thế nào?
Trong quá trình lập dự án và thực hiện dự án đầu tư xây dựng
phòng thí nghiệm, chúng tôi đã được mời tham gia ngay từ đầu, ý kiến mà chúng
tôi đề xuất về việc nên mua máy móc gì, trang thiết bị nào là cần thiết trong
lĩnh vực lọc hóa dầu đều được cơ quan chủ trì lắng nghe, tôn trọng và coi là yếu
tố quan trọng trong quá trình đấu thầu, mua sắm, chứ không phải chỉ để tham khảo.
Bên cạnh đó, trong quá trình làm việc, ngoài những thứ được trang bị ban đầu,
việc mua sắm máy móc còn được tiến hành theo nhu cầu và tiến độ công việc, nhiệm
vụ nghiên cứu của phòng thí nghiệm. Song song với công việc này, chúng tôi tiến
hành đào tạo nhân lực trên cơ sở tính toán hệ thống máy móc đi kèm, coi đó là một
trong những phương thức hiệu quả để duy trì sự đồng bộ giữa máy móc và đội ngũ
cán bộ. Vì vậy, khi máy được nhập về phòng thí nghiệm là đội ngũ cán bộ của
chúng tôi có thể sẵn sàng tiếp quản. Về lâu dài, để đảm bảo việc khai thác hiệu
quả máy móc, chúng tôi tìm kiếm đơn đặt hàng của nhà nước cũng như của doanh
nghiệp và thực hiện các đơn đặt hàng đó trên trang thiết bị mà phòng thí nghiệm
quản lý.
Trên thực tế, việc đào tạo đội ngũ cán bộ của phòng thí
nghiệm đủ về số lượng và năng lực khai thác máy móc thiết bị một cách hiệu quả
là thách thức lớn với PTNTĐLHD bởi nó liên quan đến vấn đề lương bổng, khen thưởng,
chế độ đãi ngộ… Nếu không lường trước được vấn đề như vậy thì bất cứ phòng thí
nghiệm nào cũng đứng trước nguy cơ “vỡ trận” khi thu không đủ bù chi, nhất là
trong trường hợp áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm như PTNTĐLHD.
Chị đã có giải pháp chủ
yếu nào để không bị “vỡ trận”?
Bên cạnh những đơn đặt hàng của các cơ quan quản lý,
chúng tôi phải tự tìm nguồn thu thông qua các nhiệm vụ nghiên cứu triển khai xuất
phát từ những vấn đề phát sinh trong thực tiễn, do doanh nghiệp đặt hàng. Một
câu hỏi đặt ra: làm thế nào có được đơn đặt hàng của doanh nghiệp trong khi
doanh nghiệp vẫn còn chưa hẳn tin tưởng vào kết quả nghiên cứu của nhà khoa học
trong nước? Đến nay, chúng tôi chỉ có một cách giải quyết là làm ra công nghệ
hoàn chỉnh, một cách nhanh nhất, kịp thời ứng dụng hiệu quả vào thực tiễn sản
xuất. Muốn có được điều này, khi tiến hành nghiên cứu một đề tài, dù kéo dài 5
hay 7 năm và trải qua nhiều công đoạn, tầng nấc từ cấp cơ sở đến quốc gia thì
chúng tôi vẫn phải xác định rõ mục đích nghiên cứu và địa chỉ của kết quả
nghiên cứu, tránh trường hợp nghiên cứu nửa vời, làm ra rồi cất ngăn kéo. Một
trong những ví dụ thành công là chúng tôi đã hợp tác với công ty Cổ phần Hóa chất
Phúc Lâm (Lào Cai), giúp họ hoàn thiện công nghệ, tiết kiệm năng lượng, nâng
cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Việc ứng dụng kết quả nghiên cứu đã giúp
công ty tiết kiệm được từ 50 đến 100 tỷ đồng chi phí sản xuất mỗi năm.
PTNTĐLHD trực thuộc Tập
đoàn Hóa chất Việt Nam, vậy trong quá trình vận hành, chắc hẳn PTN sẽ nhận được
sự đầu tư và hỗ trợ lớn từ cơ quan chủ quản?
Trên thực tế thì không hẳn như vậy. Tuy trực thuộc Tập
đoàn Hóa chất Việt Nam nhưng PTNTĐLHD chỉ nhận được sự hỗ trợ của cơ quan chủ
quản thông qua việc giao nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ
phục vụ sự phát triển của tập đoàn. Do không phải là nơi ra quyết định thành lập
phòng thí nghiệm nên Tập đoàn không phải chịu trách nhiệm hỗ trợ về đầu tư.
Trong khi đó, theo quy định về cơ chế tài chính ở các phòng thí nghiệm trọng điểm
quốc gia, những phòng thí nghiệm thuộc các tập đoàn kinh tế sẽ không được nhận
hỗ trợ về đầu tư trang thiết bị từ ngân sách nhà nước. PTNTĐLHD thuộc nhóm đối
tượng này và do đó, không được phép nhận kinh phí của nhà nước đầu tư cho công
tác duy tu, bảo dưỡng hoặc mua sắm trang thiết bị mới như với các phòng thí
nghiệm trọng điểm thuộc các viện, trường.
Vậy là để tạm giải quyết vấn đề, trong những năm qua,
PTNTĐLHD phải tự “giật gấu vá vai”, nếu thiết bị hỏng thì trích chi phí từ tiền
thực hiện đề tài liên quan, từ hợp đồng dịch vụ. Tuy nhiên về lâu dài, chúng
tôi không thể tự cáng đáng được việc mua thiết bị mới hoặc đầu tư nâng cấp
phòng thí nghiệm do kinh phí quá lớn. Một trong những nguyên nhân khiến
PTNTĐLHD gặp khó về cơ chế là do trong quá trình xây dựng thông tư liên tịch về
cơ chế tài chính cho phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia giữa Bộ KH&CN và
Bộ Tài chính, các nhà quản lý vẫn chưa lường hết được những vấn đề thực tiễn nảy
sinh. Việc thay đổi thông tư là cần thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho những
đơn vị trực thuộc tập đoàn kinh tế như PTNTĐLHD.
Với tình hình hiện tại, nếu PTNTĐLHD có trông chờ vào một
điều gì khác thì cũng chỉ mong có một cơ chế phù hợp, khuyến khích được sự phát
triển và tạo cơ hội thuận lợi cho các hoạt động của phòng thí nghiệm.
Cám ơn chị.