Phát triển sản phẩm quốc gia: Khó huy động nguồn lực ngoài ngân sách
Để có được sản phẩm quốc gia, góp phần phát triển các sản phẩm hàng hóa thương hiệu Việt Nam, không thể chỉ đơn thuần “rót” ngân sách mà còn phải huy động các nguồn lực ngoài xã hội. Tuy nhiên, khâu này đang được cho là có muôn vàn “nút thắt” cần tháo gỡ.
Những thành công bước đầu
Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội do ông Phan Xuân Dũng - Chủ
nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội - làm trưởng đoàn
vừa có buổi làm việc với Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) để thực hiện
chuyên đề giám sát “Hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển
KH&CN nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2005-2015 và
định hướng phát triển giai đoạn tới, trong đó chú trọng đẩy mạnh công nghiệp hỗ
trợ và cơ khí chế tạo”. Một trong những nội dung được đề cập tại buổi làm việc
là kết quả thực hiện chương trình Phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2020.
Báo cáo đoàn giám sát, ông Nguyễn Đình Hậu - Vụ trưởng Vụ các Ngành kinh
tế kỹ thuật, Bộ KH&CN - cho biết, các nhiệm vụ thuộc các dự án KH&CN
phát triển sản phẩm quốc gia được thực hiện từ năm 2014, đến nay đã bước đầu
đạt một số kết quả. Theo đó, đã có 5 nhiệm vụ thuộc dự án sản xuất vắcxin phòng
bệnh cho vật nuôi đối với bệnh lở mồm long móng, hội chứng rối loạn hô hấp và
sinh sản cho lợn và bệnh cúm gia cầm.
A/H5N1 được Bộ KH&CN ký hợp đồng triển khai. Mục tiêu của dự án là
mỗi năm sản xuất từ 15-200 triệu liều vắcxin mỗi loại, đủ cung cấp cho việc
phòng các bệnh kể trên trong toàn quốc.
“Tính đền nay, đã có 2 chủng giống gốc týp O và týp A được phân lập
thành công, tạo được 1 chủng gốc để sản xuất giống virus vắcxin lở mồm long
móng týp O. Vắcxin này đã có kết quả thử nghiệm ban đầu và đang tiến hành kiểm
nghiệm. Về vắcxin phòng hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản cho lợn, đã tạo
được 3 giống gốc để sản xuất, hồ sơ đang được hoàn thiện để thẩm định giống” -
ông Hậu cho biết.
Việc triển khai các dự án KH&CN này sẽ giúp Việt Nam sớm làm chủ
công nghệ tạo giống gốc, giảm nhập khẩu (giảm 20% đến năm 2017, 50% đến năm
2020) tiến tới chủ động hoàn toàn quy trình sản xuất các loại vắcxin kể trên.
Dự kiến đến năm 2020, doanh thu đối với vắcxin phòng bệnh lở mồm long móng týp
O là 183 tỷ đồng/12,2 triệu liều, đối với vắcxin phòng bệnh rối loạn hô hấp và
sinh sản cho lợn là 680 tỷ đồng/23,2 triệu liều, đối với vắcxin phòng bệnh cúm
A/H5N1 là 82 tỷ đồng/205 triệu liều.
Bộ KH&CN cũng đã ký hợp đồng triển khai dự án KH&CN gồm 3 nhiệm
vụ về sản phẩm thiết bị nâng - hạ có sức nâng lớn từ năm 2015. Các sản phẩm của
dự án - gồm cầu trục 1.200 tấn, cầu trục trung gian 250 tấn, cổng trục chân đế
2x130 tấn và bán cổng trục có sức nâng 350 tấn - đang được lắp đặt và bàn giao
phục vụ công trình Nhà máy thủy điện Lai Châu. Cầu trục dầm đôi do Xí nghiệp
Quang Trung sản xuất với 90% số thiết bị nội địa được đánh giá cao về chất
lượng, quy trình thử nghiệm nghiêm ngặt, giá thành thấp hơn nhiều lần so với
sản phẩm nhập từ châu Âu. Doanh thu giai đoạn 1 của dự án này dự kiến là 670 tỷ
đồng.
Không thể chỉ trông chờ ngân sách
Ông Nguyễn Đình Hậu cũng thẳng thắn thừa nhận, việc triển khai chương
trình Phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2020 còn chậm tiến độ so với dự
kiến. Đặc biệt, sự huy động nguồn lực từ xã hội tham gia chương trình còn hạn
chế. Trong một số trường hợp, sự gắn kết giữa hoạt động nghiên cứu và đầu tư
sản xuất chưa thực sự được như mong muốn.
“Đến thời điểm hiện nay, số kinh phí được huy động từ các nguồn lực
ngoài ngân sách vẫn hạn chế, ngoại trừ việc huy động kinh phí đầu tư đối với
sản phẩm giàn khoan dầu khí là hơn 1 tỷ đồng. Để huy động thành công các nguồn
lực khác, các bộ, ngành cần có sự chỉ đạo quyết liệt, sự kết nối một cách đồng
bộ ngay từ đầu giữa hoạt động nghiên cứu của các tổ chức KH&CN và nhà đầu
tư sản xuất để các nhà đầu tư sẵn sàng tiếp nhận kết quả nghiên cứu, đóng góp
nguồn lực cho phát triển sản phẩm” - ông Nguyễn Đình Hậu cho biết.
Phân tích thêm về nguyên nhân chậm tiến độ, ông Hậu cho rằng, các sản
phẩm trong chương trình Phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2020 đều có tính
phức tạp, quy mô lớn, yêu cầu cao về tính khả thi, đặc biệt khó nhất là hướng
sản phẩm đến thương mại hóa. Do đó, các bộ, ngành đều cân nhắc kỹ lưỡng khi xây
dựng các nhiệm vụ nghiên cứu và giao nhiệm vụ cho các tổ chức chủ trì phát
triển sản phẩm.
Ghi nhận các kết quả đã đạt được, song ông Phan Xuân Dũng đề nghị trong
thời gian tới, Bộ KH&CN cần chỉ đạo các đơn vị tham mưu hoàn thiện và làm
rõ vai trò, hiệu quả cụ thể của các chương trình, dự án cũng như những vướng
mắc về cơ chế, chính sách trong báo cáo gửi đoàn giám sát để tổng hợp trình Ủy
ban Thường vụ Quốc hội vào tháng 9 tới.