Kinh nghiệm hợp tác nghiên cứu khoa học ở Việt Nam
Quá trình hợp tác khoa học giữa tôi và các đồng nghiệp trong nước đã diễn ra hơn 15 năm, và qua 3 giai đoạn chính. Giai đoạn đầu, tôi tìm hiểu tình hình nghiên cứu y khoa ở trong nước, và nhận dạng ra những ưu khuyết điểm cũng như định hướng cần thiết.
Giai
đoạn 2, chúng tôi tổ chức những seminar và workshop để huấn luyện về phương
pháp khoa học. Giai đoạn 3 là hợp tác thực hiện những nghiên cứu qui mô vừa và
lớn, và công bố bài báo khoa học trên các tập san quốc tế. Qua thời gian hợp
tác trên, tôi có thể chia sẻ một số bài học và kinh nghiệm cùng các bạn quan
tâm.
Từ nhận dạng những vấn đề …
Nghiên
cứu y khoa ở Việt Nam là một trong những lĩnh vực khoa học năng động nhất. Số
liệu thống kê bài báo khoa học trên các tập san quốc tế cho thấy trong thời
gian 1996 – 2005, số bài báo khoa học liên quan đến ngành y sinh học chiếm
khoảng 23% trên tổng số bài báo khoa học từ Việt Nam, cao hơn các ngành “truyền
thống” như toán (khoảng 11%) hay vật lí (13%).
Tuy nhiên, con số trên không nói nên một thực trạng là phần lớn các nghiên cứu
y sinh học Việt Nam do người nước ngoài làm chủ. Khi chọn số bài báo khoa học
trong thời gian 2000-2001, chúng tôi phát hiện rằng trong số 164 bài báo y khoa
được công bố trên các tập san quốc tế, chỉ có 159 bài (97%) là do người nước
ngoài hoặc là tác giả đầu hoặc là tác giả chính chịu trách nhiệm cho công trình
nghiên cứu. Tỉ lệ "ngoại lực" này ở các ngành khác là 80%.
Một thực trạng khác là chất lượng nghiên cứu y khoa của Việt Nam vẫn còn thấp
hơn trung bình. Phần lớn những công trình y khoa xoay quanh các chủ đề mang
tính mô tả, công nghệ thấp, và mô hình nghiên cứu rất đơn giản. Có lẽ chính vì
thế mà đại đa số (trên 95%) những bài báo y khoa từ Việt Nam chỉ công bố trên
những tập san có hệ số ảnh hưởng (impact factor) thấp hơn hoặc bằng 3.
Các
nhà nghiên cứu Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn trong việc làm nghiên cứu và
công bố bài báo khoa học. Khó khăn đầu tiên và có thể nói là lớn nhất là chúng
ta vẫn còn thiếu các chuyên gia tầm vóc quốc tế, và vì thế khó có thể chọn đề
tài nghiên cứu sao cho theo kịp với tiến bộ của y học trên thế giới. Qua những
công trình nghiên cứu y khoa ở Việt Nam (như luận án tiến sĩ, bài báo khoa học
đăng trên các tạp chí trong và ngoài nước) người ta có thể nhận ra sự vụn vặt
và tủn mủn trong các đề tài nghiên cứu, những đề tài mà thế giới chẳng quan tâm
hay rất ít quan tâm đến.
Bên cạnh đó còn có hai trở ngại lớn là vấn đề phương pháp khoa học và tiếng
Anh. Đại đa số các đồng nghiệp Việt Nam không có cơ hội tiếp cận với các phương
pháp khoa học hiện đại, nên họ chưa biết thực hiện ý tưởng ra sao, hoặc khi
thực hiện xong thì kết quả khó diễn giải. Một số khác thì được học qua vài lớp
tập huấn căn bản về nghiên cứu y khoa (phần lớn là dịch tễ học cơ bản), nhưng
vì những lớp học này cũng không có hệ thống, nên họ cũng chưa phát huy được khả
năng của mình. Có lẽ đây chính là lí do tại sao các nghiên cứu y khoa ở Việt
Nam quá đơn giản, đơn điệu, và không có giá trị khoa học cao. Thêm vào đó đại
đa số các bác sĩ gặp khó khăn trong việc hiểu và diễn giải bằng tiếng Anh, nên
họ khó tiếp cận y văn quốc tế một cách có hệ thống. Một số khác tuy có khả năng
tiếng Anh, nhưng chỉ dừng lại ở mức độ giao tiếp (tức nói hay dịch), chưa đủ
khả năng để viết một bài báo khoa học nghiêm chỉnh.
Đến hợp tác từng bước
Bắt
đầu từ những năm giữa thập niên 1990, tôi kết hợp với các đồng nghiệp trong
nước thực hiện những seminar nhỏ (hiểu theo nghĩa chỉ giới hạn trong khoảng 30
đến 100 người). Những seminar này chủ yếu giới thiệu một số định hướng nghiên
cứu mới trong chuyên ngành. Qua những buổi nói chuyện và trao đổi như thế,
chúng tôi có thể xác định được định hướng nghiên cứu thích hợp cho Việt Nam.
Thích hợp ở đây hiểu theo nghĩa có thể làm được trong điều kiện còn thiếu thốn
về thiết bị, tiền bạc, và môi trường y học ở trong nước cho phép.
Mãi đến giữa thập niên 2000 chúng tôi mới có khả năng thực hiện những workshop
về phương pháp và chuyên đề. Bắt đầu từ năm 2004, với sự giúp đỡ về mặt tổ chức
từ các đồng nghiệp trong nước, tôi và đồng nghiệp thực hiện những workshop về
phương pháp nghiên cứu, di truyền học, và loãng xương tại nhiều trung tâm
nghiên cứu từ Bắc chí Nam. Những workshop này thường có từ 70 đến trên 200
người tham gia, và kéo dài từ 3 đến 10 ngày. Tính đến nay, chúng tôi đã thực
hiện được hơn 20 workshop như thế ở những trung tâm như Bộ môn Nội tiết (Đại
học Y Dược TPHCM), Đại học Y Hà Nội, Viện Nhi trung ương, Đại học Bách Khoa
TPHCM, và nhiều bệnh viện cấp trung ương đến cấp tỉnh, kể cả một số tổ chức phi
chính phủ. Càng ngày, workshop của chúng tôi trở nên có hệ thống hơn và chuyên
sâu hơn. Học viên được kiểm định trình độ trước và sau khi học, và thực hành
trong lớp học. Những năm sau này, chúng tôi cố đặt ra tiêu chí "đầu
ra" là sau 12 tháng mỗi workshop phải có ít nhất là một bài báo khoa học
đăng trên các tập san y khoa quốc tế. Thật ra, trong thực tế, chỉ có một số học
viên có thể thực hiện được tiêu chí trên, vì phần lớn là nghiên cứu sinh và mục
tiêu của họ là tiếp thu kiến thức và kĩ năng trước khi làm nghiên cứu. Nhìn qua
những phát triển cá nhân, chúng tôi có thể nói rằng những workshop như thế đã
góp một phần nhỏ vào việc nâng cao kĩ năng nghiên cứu cho một số đồng nghiệp
trong nước.
|
GS
Nguyễn Văn Tuấn trong một workshop tại Tp. Hồ Chí Minh |
Từ
các workshop, tôi nghĩ đã đến lúc có thể hợp tác thực hiện những nghiên cứu y
khoa ở Việt Nam. Về đề tài, chúng tôi tập trung vào những đề tài thiết thực ở
Việt Nam nhưng có tầm ảnh hưởng quốc tế và có thể thu hút sự chú ý của giới y
khoa quốc tế và những tập san có uy tín cao Về hình thức, chúng tôi làm theo 2
phương thức là cố vấn và trực tiếp tham gia. Trong phương thức thứ nhất, chúng
tôi chọn ra đề tài, cố vấn cho các đồng nghiệp về chọn thiết kế nghiên cứu
thích hợp, mô hình thử nghiệm và đo lường, phân tích dữ liệu, và viết bài báo
khoa học và công bố quốc tế. Trong phương thức thứ hai, chúng tôi trực tiếp
tham gia cùng đồng nghiệp từ khâu ý tưởng đến công bố quốc tế. Chúng tôi nghĩ
rằng qua 2 hình thức hợp tác như thế, các đồng nghiệp trong nước dần dần tiếp
cận với những định hướng mới trong chuyên ngành, những phương pháp chuẩn, và
làm quen với "văn hóa" công bố quốc tế, kể cả làm quen với những qui
ước và qui định của các tập san y khoa quốc tế.
Trong
thời gian khoảng 10 năm qua (chủ yếu là 5 năm qua), chúng tôi đã công bố được
14 công trình nghiên cứu "thuần Việt" trên các tập san y khoa quốc
tế. Trong số 14 bài báo, có 3 bài liên quan đến loãng xương và tiểu đường gây
được tiếng vang lớn, được giới truyền thông quốc tế chú ý và đăng tải. Ngoài
phần lớn những công trình liên quan đến chuyên ngành chính của chúng tôi (loãng
xương và nội tiết), chúng tôi còn giúp các đồng nghiệp công bố những công trình
liên quan đến dịch hạch và chất độc da cam. Trong vài năm sắp tới, số bài báo
khoa học sẽ tăng cao hơn sau khi những công trình nghiên cứu qui mô mà chúng
tôi đang hợp tác sắp hoàn tất.
Và những kinh nghiệm … Qua nhiều
năm hợp tác với các đồng nghiệp trong nước, tôi cũng rút ra vài kinh nghiệm.
Những kinh nghiệm này chủ yếu liên quan đến việc tìm đề tài thiết thực, đối
tác, phương tiện khoa học, vấn đề tài trợ cho nghiên cứu, và phản biện.
Vấn đề ý tưởng. Nghiên cứu khoa học phải bắt đầu bằng một ý tưởng, và từ ý
tưởng mới chuyển thành giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu. Kinh nghiệm của tôi
cho thấy nhiều đồng nghiệp thiếu cập nhật thông tin. Phần lớn những thông tin
họ có được là từ sách giáo khoa (có khi đã lạc hậu), hay các bài báo từ những
tác giả hay những tập san không có uy tín. Còn câu hỏi nghiên cứu thường quá
đơn giản cứ như là bài tập cho học sinh, có khi chẳng có liên quan gì đến lâm
sàng mà chỉ làm cho có "nghiên cứu", hoặc phạm vi quá hẹp chẳng có
giá trị khoa học gì đáng kể. Có khi ý tưởng của tôi không tương đồng với ý
tưởng của thầy cô của nghiên cứu sinh (và thầy cô không chịu làm cách khác),
nên không thể nào thực hiện được. Do đó, phải tốn rất nhiều thì giờ để
"chỉnh sửa" những ý tưởng như thế thành một dự án có tính khoa học và
khả thi cao.
Tìm đối tác. Tìm được đối tác
nghiên cứu là điều rất quan trọng. Nhiều lần đề nghị ý tưởng với đồng nghiệp,
tôi thường nhận được hồi đáp lịch sự, đại khái như "ý tưởng hay lắm, nhưng
khó thực hiện vì còn nhiều khó khăn. "Có người kì vọng rằng chúng tôi sẽ
đem tiền và phương tiện về Việt Nam để nghiên cứu (như nhiều đồng nghiệp ngoại
quốc khác), và họ thường hỏi họ sẽ được hưởng lợi gì hay bao nhiêu. Cố nhiên,
câu trả lời của chúng tôi là "ba không" : không tiền, không phương
tiện, và không học bổng. Chúng tôi chỉ có "ba có": có tâm, có ý
tưởng, và có kĩ năng. Có khi ý nguyện mang tích tích cực nhưng được vài đồng
nghiệp diễn giải theo nghĩa "tiêu cực", cho rằng chúng tôi đang gặp
trở ngại ở nước ngoài hay sắp mất việc nên mới tìm về Việt Nam để cứu vãn tình
thế! Chúng tôi không quan tâm đến những hồi đáp và suy nghĩ như thế, mà chỉ
muốn chứng minh bằng việc làm thực tế. Chúng tôi nghĩ rằng cần phải có đối tác
có tấm lòng với khoa học nước nhà, chịu dấn thân và hi sinh thời gian vì tri
thức, và có khả năng làm nghiên cứu. Ở nước ta, tìm được những cá nhân như thế
không dễ chút nào. Thế nhưng qua nhiều seminar và workshop, chúng tôi cũng có
được nhiều đồng nghiệp hội đủ những tiêu chuẩn trên để đạt được những kết quả
vừa trình bày.
Vấn đề thiết bị và phương tiện. Một khó khăn lớn ở Việt Nam là
thiếu thiết bị hiện đại để thực hiện những nghiên cứu quan trọng và có chất
lượng cao. Để làm những nghiên cứu "nóng" trên thế giới như nghiên
cứu cơ bản hay di truyền học đòi hỏi nhiều thiết bị phân tích và chuyên viên
lành nghề mà Việt Nam vẫn còn thiếu trầm trọng. Do đó, chúng tôi chọn những đề
tài vừa mang tính thiết thực cho lâm sàng và y tế công cộng, nhưng vừa có hàm
lượng khoa học cơ bản để vượt ra ngoài phạm trù của những nghiên cứu đơn giản
mà nhiều người ở Đông Nam Á hay thực hiện. Cũng có khi chúng tôi chọn những kĩ
thuật phân tích ít tốn kém hơn, nhưng vẫn đảm bảo độ chính xác và độ tin cậy có
thể chấp nhận được đối với cộng đồng khoa học quốc tế.
Vấn đề tài trợ cho nghiên cứu.
Một trong những yếu tố làm nhiều đồng nghiệp trong nước nản chí là vấn đề kinh
phí. Họ không biết xin tài trợ từ đâu, và ngay cả biết nguồn thì vẫn rất ngại
với việc "bôi trơn" vốn đã trở thành phổ biến ở trong nước. Gần đây,
sự ra đời của Quĩ Nafosted đã tạo ra một "sân chơi" bình đẳng và minh
bạch cho giới làm khoa học, nhưng những người có khả năng thật sự, có công bố
quốc tế tốt và chưa có bằng tiến sĩ thì không đủ điều kiện để xin tài trợ từ
Quĩ! Đành rằng nghiên cứu thực nghiệm thường đòi hỏi kinh phí khá cao, nhưng
không phải công trình nào cũng đắt tiền cả. Tôi đã cố gắng thuyết phục nhiều
đồng nghiệp như thế. Tình trạng thiếu kinh phí dẫn đến một hiện tượng rất đáng
quan tâm là nhiều nghiên cứu được thực hiện trên bệnh nhân mà tiền xét nghiệm
đều do bệnh nhân chi trả và họ chẳng biết rằng họ là đối tượng của công trình
nghiên cứu!
Vấn đề phản biện và hành chính. Nhiều đồng nghiệp trong nước rất
ngại phản biện và hành chính, không phải vì họ không có khả năng chuyên môn, mà
vì qui trình phản biện không mang tính khoa học. Hiện nay, qui trình phản biện
dựa vào bình luận của một số "chuyên gia" trực tiếp (trước mặt tác
giả) và không cho tác giả cơ hội để phản hồi. Những chuyên gia này có khi thiếu
cập nhật thông tin, thậm chí không am hiểu về lĩnh vực họ nhận xét. Thêm vào đó
là thủ tục hành chính hết sức máy móc và nặng nề (như báo cáo giữa kì và những
qui định rất "lạ lùng" chỉ có ở Việt Nam) làm cho giới nghiên cứu
khoa học nản lòng. Có khi một công trình nghiên cứu đã công bố trên tập san y
khoa quốc tế, nhưng cơ quan địa phương lại đòi hỏi phải qua "nghiệm
thu"!
Bất cứ một hợp tác nào cũng đem lại nhiều thành quả cho hai bên. Đối với tôi,
những hợp tác trong thời gian qua ở trong nước là một phần quan trọng (có lẽ
quan trọng nhất) trong những việc tôi làm cho và ở Việt Nam. Những việc làm đó
cũng là một phần có ý nghĩa trong sự nghiệp cá nhân tôi. Tất cả những hợp tác
trên đều thực hiện với tư cách cá nhân và liên hệ cá nhân. Đối với các đồng
nghiệp trong nước, tôi nghĩ những công trình đó là những cơ hội để tiếp cận
những ý tưởng và phương pháp mới, cũng như cơ hội để đóng góp vào y văn quốc
tế. Việc đã làm vẫn chưa đủ, nên trong tương lai chúng tôi mong muốn làm nhiều
hơn nữa và thiết thực hơn nữa, qua những workshop và dự án nghiên cứu qui mô
hơn.